TAM GIANG CAO ĐÀI
Trích kinh Bình Minh Đệ Nhứt, đàn Ngọ thời, ngày 29 tháng 2 năm Mậu Thân (27-3-1968), tại Hườn Cung Đàn, Giáo Hội Cao Đài Thống Nhứt.
(Tiếp điễn:)
NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ
kim viết Cao-Đài giáo Đạo Nam Phương.
Thầy ban ân lành chung cho thế gian, các con an tọa nghe Thầy tả.
Tiếp thi bài:
Chữ Đạo vẫn ngòi son tô điểm,
Khá nghiệm suy kiểm điểm nơi lòng,
Đạo là mạch nước nguồn trong,
Tràn lan khắp chảy lưu thông giáo truyền.
Thầy giáng bút lời khuyên đã cạn,
Học làm sao cho đáng con Thầy,
Mặc tình con đấy Thầy đây,
Khổ lao con phải làm khuây chớ phiền.
Đạo con trẻ ba giềng tua gắng,
Bổn phận tròn lời dặn của Thầy,
Từ nay qui Bắc hiệp Tây,
Giống nòi con phải liên dây dắt dìu.
Thầy tá bút tả nhiều Kinh sám,
Thầy buồn cho cả đám quần sanh,
Đọc Kinh mà chẳng y hành,
Lại khen chê lắm cải-canh giáo truyền.
Thầy sắc chỉ con hiền mau lãnh,
Lãnh vai tuồng ấm lạnh đừng than,
Phổ-thông giáo Đạo bủa tràn,
Vun bồi nền móng hiệp đoàn nhơn-sanh.
Con hữu chí thi hành đáng phận,
Đứng râu mày hối hận nước non,
Hễ cây Linh-bút chưa mòn,
Đạo tâm con giữ, Thầy còn giáng cơ.
Thầy đã tính ngày giờ y số,
Dạy các con suy cổ nghiệm kim,
Mối dây Đạo vẫn im-điềm,
Lo sao cho chóng, tỵ hiềm chớ phân.
Nhìn thời cuộc Long-Vân mãn hạn,
Hội Long-Hoa phán đoán đại-đồng,
Đức tài cho vẹn mới xong,
Tài vô đức thiểu, khó mong đến Thầy.
Thương chúng sanh, Kinh này chỉ vẽ,
Từ tiếng khuyên cặn kẽ mãy lông,
Con mau triêm nghiệm nơi lòng,
Từ câu bí ẩn phi long tỏ tường.
Nhơn ý nguyện Thiên đường độ tận,
Con chớ than rằng phận ấu nhi,
Miễn trong hai chữ Tam-Kỳ,
Châu nhi phục thỉ, Thiên thì vẫn ban.
Đạo kinh sớm tràng-phan huấn giáo,
Tại các con ai bảo không lo,
Rừng nhu, biển Thánh không mò,
Nhà văn cửa Khổng mấy trò ứng thi.
Ngày Đại-Đạo Tam-Kỳ qui nhứt,
Con tứ phương tranh đức đua tài,
Nữ nam đẹp mặt nở mày,
Cùng nhau đồng bước thời lai một đàng.
Thầy giáo Đạo tam giang phân phát,
Nhưng chỉ qui một lát Tiên ban,
Trước khi mở Đạo Tiền-Giang,
Lập nên Phái Thượng, Đạo vàng phổ thông.
Qua Nhâm-Thân đại đồng sắp mở,
Đạo-đức càng mở cả tam giang,
Thầy khai mối Đạo trung-giang,
Lập nên Phái Thái chiêu an sĩ tài.
Cơ tấn hóa Cao-Đài tối trọng,
Mà các con hư hỏng vì đâu,
Để tầm mãi luống trông dâu,
Hóa thân nên kén công đâu bủa tràn.
Thầy chuyển Đạo, hậu-giang Phái Ngọc,
Lấy thời kỳ làm gốc Đạo Cao,
Đức tin con trẻ đem vào,
Lịnh Thầy truyền chỉ một màu Bạch-Y.
Đạo tam giang gồm qui nhứt bổn,
Chuyển cung Ly hiệp cốn cung Càn,
Nay Thầy phân giải tam giang,
Tỏ khêu đuốc tuệ rọi đàng con đi.
Song tách rẽ nhiều chi nhiều phái,
Cơ phổ-thông Thầy phải chuyển ra,
Qui nguyên con trẻ một nhà,
Chơn hành giả diệt con ta tỏ bày.
Nhớ hai chữ Cao-Đài cứu thế,
Quên hai câu khi dễ Thánh Thần,
Trí-tri một dạ tao-tân,
Rèn lòng tráo-chác đừng phân bản quyền.
ớ hỡi trẻ, thảo hiền trung tín,
ớ con ôi! tà nịnh ham chi,
Vẻ vang hai chữ Tam-Kỳ,
Khôi khôi Thiên võng nhược thì thế theo.
Thầy chẳng vị giàu nghèo bao sá,
Miễn các con hiểu cả Đạo đời,
Nghèo mà đạo-đức phơi phơi,
Cũng như cây úa gặp thời tuyết chan.
Không đạo-đức giàu sang bao lát?
Chỉ tiêu tan thấm-thoát gió mây,
Nước khi vơi, ắt khi đầy,
Trăng trời hết khuyết, đượm đầy tròn tươi.
Gẫm cuộc thế khóc cười theo dính,
Suy nghĩ mình mấy chính đó con,
Cao mưu Gia-Cát hỡi còn,
Tài như Liễu-Nhứt mỏi mòn lắm ru.
Xuân đã mãn Hạ Thu Đông tái,
Tháng qua rồi năm lại vừa qua,
Tóc xanh thử hỏi khi già,
Sống y ba vạn sáu ngàn ngày chăng?
Cái khổ đã buộc ràng linh tánh,
Chỉ ở trong hoàn cảnh não nề,
Thấy vầy Thầy luống ủ ê,
Các con sao chẳng tởn ghê chút nào?
Đường tấn hóa làm sao cho kịp,
Bước văn minh lướt hiếp tinh thần,
Nói rằng ích nước lợi dân,
Xét ra cho thật cái thân não-nề.
Khuyên con trẻ mau về Tiên Phật,
Đất minh châu thật đất quý thay,
Thế gian chỉ có đa tài,
Lăng-xăng chôn lấp, quên ngày Ngọc-Kinh.
Thương lẫn cả thương mình luôn thể,
Độ chúng sanh, phổ tế cho mình,
Phật Trời huyền diệu thinh thinh,
Sáng soi khắp cả chơn-linh các loài.
ớ hỡi trẻ nhơn tài trọn ý,
Giúp Đạo Thầy giúp ý cho con,
Linh-Tiêu Thầy luống thon-von,
Khóc là oan trái vì con dại khờ.
Đạo do bởi Thiên-cơ dắt trẻ,
Mà các con có lẽ hiểu rành,
Đường đời là vũng hôi tanh,
Có chi là quý giựt-giành đẩy xô.
Thầy vẽ sẵn bản đồ mực thước,
Cho con tường thao lược tinh anh,
Từ đây con phải thi hành,
Thiên lao vạn khổ Thầy đành bỏ sao?
Đời hằng nói Trời cao soi thấu,
Có việc chi con giấu đặng người,
Giấu người con lại dể-duôi,
Giấu Trời sao đặng con ôi hiểu rành.
Thầy nhắc đám quần sanh chủng loại,
Đã réo kêu chẳng ngoái lại sao,
ối thôi! ruột tím gan xào,
Trái tim Thầy chảy máu đào nhuận tuôn.
Con ra lãnh vai tuồng gánh nặng,
Hãy lóng nghe lời dặn của Thầy,
Tử vì đạo-đức như vầy,
Đắc thành chánh-quả theo Thầy về nguyên.
Danh vẫn để lưu truyền hậu thế,
Tiếng ngợi khen sử để muôn đời,
Trải gan mật vẫn phơi-phơi,
Trăm muôn ngàn việc do Trời định phân.
Thầy cầm một cán cân chơn lý,
Thầy chẳng riêng tư vị con nào,
Chép biên số mạng Thiên-Tào,
Lành ban ác đọa mãy hào sót sai.
Hễ chưởng giống đợi ngày ăn trái,
Hễ trồng cây thì phải vun phân,
Hễ tu bồi bổ tinh thần,
Hễ đời thì phải tảo-tần chạy lo.
Biết đạo-đức khuyên trò triêm nghiệm,
Biết Đạo lo tìm kiếm nơi lòng,
Biết rằng khắp cả non sông,
Biết cho Thiên võng mãy lông lọt nào.
Biết đạo-đức mau mau hiệp lại,
Biết khôn ngoan thì phải biết nghe,
Biết nghe mỗi việc kiêng dè,
Biết xa tứ khổ, bạn bè kết chi.
Biết chỗ hại, còn đi a lại,
Biết chỗ hư mà cãi a vào,
Như vầy Thầy liệu làm sao?
Như vầy con chịu đớn đau một mình.
Con thông-thái còn khinh Tiên Bụt,
Con rõ thông Cơ-bút làm sao,
Mà con buông tiếng hổn hào,
Chê bai Thần Thánh khác nào trẻ chơi.
Chẳng sớm muộn chiều mơi con rõ,
Con rõ cho cùm rọ vương mang,
Đến chừng thấy khổ rồi than,
Ăn năn đã muộn, réo vang Thánh Thần.
Trước chẳng lo tu thân nhơn-đạo,
Để mượn vay quả báo theo mình,
Từ đây con rán xem Kinh,
Bình-Minh Đại-Đạo con gìn nơi tâm.
Thăng...