Có các vị Khách Đạo đến thăm Đức Ngài tại Tòa Đình GHTT và đã vấn đạo Đức Ngài trong nhiều giờ. Suốt thời gian trao đổi đã có nhiều vấn đề được nói tới. Nay xin ghi lại một vài điểm thú vị (chỉ tóm tắt ý chính vì không có thâu lại nguyên văn).
Vấn Đáp Ngày Đầu Năm 2025 - Phần 3
VẤN ĐÁP 9
Khách Đạo hỏi: Cái vỏ cho một sinh mệnh gồm có những thành phần nào? Tự nó có phải là sự sống? Tự nó có đầy đủ ý thức? Đức Ngài trả lời:
Từ Đạo xin phép tự giới hạn câu trả lời của mình trong phạm trù cái vỏ của loài người mà thôi, mặc dù phần lớn những gì Từ Đạo sắp trình bày cũng đúng cho những loài sinh mệnh khác.
Một cái vỏ loài người, ngoài cái hiển nhiên gọi là một bản thể sinh học, nó còn là một bản thể tin học. Từ một đơn bào đầu tiên chứa đựng 46 cặp nhiễm sắc thể, 23 cặp nhiễm sắc thể của cha và 23 cặp nhiễm sắc thể của mẹ, bám vào niêm mạc của tử cung người mẹ rồi dần hình thành một bộ máy sinh học vô cùng tinh vi với đầy đủ chức năng cùng điều kiện thể chất và các thuộc tính bẩm sinh khác. Sự sáng tạo và tiến trình sáng tạo đầy kỳ diệu, tất cả chỉ nhờ vào tin liệu và lập trình chứa đựng sẵn trong cái đơn bào đầu tiên đó.
Có thể nói là sinh học và tin học đã kết hợp để hình thành được một cái vỏ tinh vi cho loài người. Khi đã hình thành đầy đủ, một người có khoảng 20 đến 100 ngàn tỷ tế bào (20-100 trillion human cells) tùy theo độ tuổi, giới tính, và cân nặng. Hàng chục nghìn tỷ tế bào này làm nên bản thể sinh học của một người đồng thời đó cũng là hàng chục ngàn tỷ linh kiện tinh vi làm thành bản thể tin học. Không có cái bản thể tin học này thì bản thể sinh học không thể vận hành. Các thành phần sinh học kết hợp lại thành từng bộ phận và chức năng sinh học làm nên một tổng thể sinh học có thể ví như các thành phần linh kiện được tích hợp vào các bảng mạch điện tử và rồi cấu tạo thành một bộ máy hoàn chỉnh. Còn bản thể tin học có thể ví như dữ liệu số hoạt động thông qua các linh kiện của bộ máy . Nếu ví bản thể sinh học là phần cứng (device’s hardware) thì bản thể tin học chính là phần mềm đi kèm (firmware, embeded software) để cái vỏ có thể hoạt động. Về mặt lưu trữ tin liệu, các thành phần sinh học cũng có thể ví như là giá thể (substrate) chứa đựng tin liệu (data). Hy vọng là các ví dụ khập khiểng này có thể giúp chúng ta hình dung “tính keo sơn” tức là sự tùy thuộc vào nhau của hai bản thể sinh học và tin học.
Từ khi sinh cơ khởi động, cái đơn bào đầu tiên đã nén cả một kho tin liệu không những chứa đựng thông tin suốt cả chiều dài phát triển của loài người mà còn chứa cả những thông tin đặc thù cho sự phát triển của riêng một cái vỏ. Từ ngày ra khỏi bụng mẹ cho đến lúc chết, cái vỏ con người liên tục tiếp nhận và lưu trữ tin liệu từ môi trường chung quanh và chuyển hóa tin liệu (data) thành thông tin (information) hữu ích để ứng phó với môi trường sống. Nói một cách khác bản thể tin học hình thành cái luôn luôn hiện hữu gọi là nhận thức và luôn luôn tiếp nhận thêm tin liệu trong suốt cuộc đời và tích lũy để rồi hình thành cái gọi là kiến thức. Khả năng nhận thức là “tánh biết” tự nhiên.
Thực phẩm, nước uống và không khí đưa vào được biến thành năng lượng nuôi dưỡng cái vỏ để cho nó vận hành. Không có nguồn năng lượng này cho nó, cái vỏ sẽ không thể tiếp tục sự sống. Nguồn năng lượng hậu thiên liên tục hiện hữu và luân chuyển trong cái vỏ là sinh khí duy trì sự sống của cái vỏ, tạm gọi bản thể của sinh khí này là Thân Sinh Khí.
Khi cái vỏ còn sống, sinh khí còn duy trì, thì cái vỏ liên tục phát ra một thứ ánh sáng bao quanh. Bản thể của ánh sáng bao quanh này tạm gọi là Thân Sinh Quang. Bản thể ánh sáng phát ra nhiều màu sắc khác nhau và luôn thay đổi theo cảm xúc và lý trí mỗi lúc. Các tần số rung động cộng hưởng (frequency resonances) của Thân Sinh Quang cùng với các tần số rung động cộng hưởng của não và trái tim biểu thị cho hiện trạng vật-hóa-sinh-tâm của cái vỏ.
Khoa học thì cho rằng tất cả ý thức của con người nằm ở não bộ. Não bộ trung bình nặng khoảng 1.5 kí lô gram chứa 100 tỷ tế bào thần kinh (neurons) và khoảng một ngàn tỷ tế bào đệm (gladial cells, non-neuronal cells). Phần vỏ não (cerebral cortex) chiếm tới 81.8% tổng khối lượng và 18% tổng số tế bào thần kinh. Phần tiểu não (cerebellum), nằm sát phía sau ót vùng Ngọc Chẩm, chiếm 10.3% tổng khối lượng và 80.2% tổng số tế bào thần kinh. Phần cùi não (rest of brain) chiếm 7.8% tổng khối lượng và 0.8% tổng số tế bào thần kinh.
Thông tin từ môi trường bên ngoài được năm giác quan (five senses) tiếp nhận và đưa về trạm kiểm soát hình trứng (Thalamus). Có tới 82% thông tin đưa tới sẽ bị loại bỏ, ngoại trừ thông tin về mùi từ mũi. Số 18% không bị loại bỏ sẽ được phân loại và đưa đến các trung tâm chức năng nằm trong tiểu não để tiến hành xa hơn. Não bộ tiến hành nhận thức sơ khởi và sau đó não bộ sẽ truy cập tin liệu đã có sẵn từ kho lưu trữ đem ra tổng hợp với thông tin mới rồi tiến hành đối chiếu, cân phân, lý luận… để “giải mã” ý nghĩa rồi dẫn đến kết luận và đưa ra mệnh lệnh hành động tương xứng. Sau đó tất cả sẽ được đưa vào kho tin liệu để lưu trữ và sử dụng sau này.
Tiến trình não là công việc của não bộ. Nhưng cho rằng não bộ là nguồn của toàn bộ ý thức và ý thức hoàn toàn phát sinh từ não bộ là không chính xác. Trái tim cũng là một tiểu não bộ. Nó cũng hoạt động gần như não bộ. Não bộ thiên về xử lý thông tin lý trí còn trái tim thiên về xử lý thông tin tình cảm .
Cầu năng lượng tỏa ra ở vùng đầu và vùng tim đóng vai trò thu phóng thông tin ví như một trạm hotspot cá nhân. Cầu năng lượng của người A giao thoa với cầu năng lượng của người B thì thông tin từ trường năng lượng của người A sẽ tiến nhập vào trường năng lượng của người B và ngược lại. Chức năng chuyển thông tin hai chiều này của trường năng lượng không khác mấy với chức năng "bi-directional data buses" của máy tính. Nếu thông tin tiến nhập từ bên ngoài được sử dụng và lưu giữ, thông tin đó sẽ trở thành tin liệu cục bộ. Nằm trong tầm bao phủ của cầu năng lượng của một chủ thể, một khách thể nếu có đủ nhạy cảm sẽ có thể nắm bắt được thông tin của chủ thể đó. Và ngược lại cũng thế. Đây cũng chính là nguyên tắc hoạt động của cái gọi là thần giao cách cảm (telepathic communication).
Trong vũ trụ pháp giới có vô lượng sinh mệnh và linh mệnh liên thông ý thức qua đa dạng hình thái. Tất cả kết nối này tạo thành một ý thức cộng đồng. Như đã nói, tất cả đều đến từ sự sáng tạo của Linh Lực Nguồn cho nên ý thức cộng đồng cũng là ý thức của Linh Lực Nguồn. Nói cho chính xác hơn, ý thức của Linh Lực Nguồn luôn luôn hiện diện ở mỗi linh mệnh và ý thức của mỗi linh mệnh luôn luôn nối kết với Linh Lực Nguồn. Vâng, Từ Đạo muốn nói ý thức không đến từ não bộ của một người mà đến từ ý thức của Linh Lực Nguồn, đến từ Ý Thức Nguồn, đến từ Nguồn Tạo.
Sao có thể như thế được? Không có gì là phi lý cả. Nguồn Tạo, một thể năng lượng vô biên không thể nghĩ bàn, rung động vô biên tần số không thể nghĩ bàn. Nguồn Tạo, một thể ý thức vô biên không thể nghĩa bàn, bủa ra vô biên ý thức không thể nghĩ bàn. Nguồn Tạo, một thể linh lực vô biên không thể nghĩ bàn, bủa ra vô biên linh lực không thể nghĩ bàn. Nguồn Tạo, Năng Lượng Nguồn, Ý Thức Nguồn, Linh Lực Nguồn là một. Tần số rung động chính là ý thức. Ý thức là danh gọi của tần số rung động. Vì có ý thức nên nói là linh. Linh chính là ý thức.
Nói tóm lại, cái vỏ loài người gồm có bốn thân là Thân Sinh Học, Thân Tin Học, Thân Sinh Khí và Thân Sinh Quang. Tuy nhiên, Thân Sinh Khí và Thân Sinh Quang là phái sinh của Thân Sinh Học cho nên cũng có thể nói đơn giản hóa là cái vỏ con người chỉ có hai thể là Thể Xác và Thể Trí.
Khi thọ mạng đã hết, Thân Sinh Khí và Thân Sinh Quang sẽ biến mất trước tiên. Sau đó là Thân Tin Học. Và cuối cùng là Thân Sinh Học sẽ bắt đầu tan rã.
Như đã nói ngoài hai thể sinh học và thể tin học, nôm na là thể xác và thể trí, còn có một thể thứ ba là thể linh hay Linh Thể (spirit), là chủ thể của một sinh mệnh. Thông thường thì linh thể sẽ nhập vào cái vỏ lúc nó vẫn còn nằm trong bụng mẹ. Nhưng đối với những linh mệnh cao tần tiến nhập vào dương gian thì họ sẽ không nhập thể lúc đó mà đợi tới sau khi cái vỏ đã được sinh ra, có khi tới nhiều năm về sau.
Linh thể không chết như cái vỏ. Thông thường thì linh thể sẽ xuất ra khỏi cái vỏ một thời gian ngắn trước khi thọ mạng của cái vỏ đã thực sự tận.
Trong suốt chiều dài thọ mạng của cái vỏ, linh thể thường xuyên ra khỏi cái vỏ, nhất là vào lúc cái vỏ ngũ mê, để “du hành” bên ngoài một lúc và rồi trở về nhập vào lại cái vỏ để tiếp tục “làm chủ nhân ông” thầm lặng. Rất ít người nhận thức rõ ràng về sự xuất nhập của linh thể. Đôi khi những trãi nghiệm của linh thể trong lúc cái vỏ đang ngũ mê thì được cho là mộng. Người tu luyện hiếm khi ngũ mê nên sẽ có nhận thức rõ ràng hơn về sự xuất nhập của linh thể.
VẤN ĐÁP 10
Khách Đạo hỏi: Xin được phép hỏi thêm một lần nữa để nắm rõ hơn, trãi nghiệm chính xác nghĩa là gì? Ai là chủ thể trãi nghiệm? Thể trí của cái vỏ có trãi nghiệm, hay chỉ linh thể trãi nghiệm? Ai ý thức những trãi nghiệm? Đức Ngài trả lời:
“Tôi đang đứng trên Đồi Săn Mây chờ ngắm bình minh. Buổi sáng sớm đầu mùa đông nên không gian buốt lạnh. Mây phủ giăng rừng cây bên dưới chưa tan nên chẳng thấy được gì nhiều. Có ai đó đang đứng phía sau lưng tôi. Người ấy đánh diêm quẹt đốt lên một điếu thuốc. Mùi lưu huỳnh đặc trưng của que diêm đang cháy. Rồi một mùi khói thuốc quen thuộc len vào mũi. Một nỗi đau mơ hồ nào đó dấy lên trong tôi. Rồi những kỷ niệm ùa về. Cũng mùi thuốc lá Caraven A quen thuộc này. Cũng khung cảnh thơ mộng này. Nơi đã từng chứng kiến không ít lần hai đứa quấn quít bên nhau, và những lời hứa hẹn của anh dành cho tôi, những lời có cánh anh không giữ được. Giờ thì tôi một mình đứng ở nơi đây, nơi vẫn còn phảng phất hương vị cuộc tình của hai đứa. Tôi đã muốn giũ bỏ tất cả và quên đi cuộc tình chết vội này. Nhưng rõ ràng là tôi vẫn chưa quên được. Rõ ràng là ngay lúc này tôi đang nhớ đến anh. “Em nhớ anh! Em hận anh!”, tôi thì thầm. Giọt nước mắt nào mơ hồ lăn xuống làm môi tôi mằn mặn. Tôi chết lịm trong nỗi đau mưng mủ.”
Từ Đạo vừa trình bày một đoạn văn hư cấu, tạm gọi là "một video clip" trong đó diễn tả các màn trãi nghiệm của một người phụ nữ trong một khoảnh khắc thời không. Chữ “Tôi” là một chủ từ gán cho cái vỏ của người nữ này. Cái vỏ đó đã "sống qua" các "hiện thực thế gian" và chúng trôi chảy liên tục như một dòng sông. Từ trãi nghiệm thế giới bên ngoài thông qua các giác quan, cho tới trãi nghiệm hồi ức, cho tới trãi nghiệm những giai điệu cảm xúc tâm lý, cho tới trãi nghiệm vật-sinh-hóa và những diễn biến bên trong đã thể hiện thành giọt lệ bên ngoài. Cái vỏ đã trãi nghiệm nhiều màn, liên tục qua lại giữa ngoại giới với nội giới, giữa quá khứ với hiện tại, giữa tiếng nói của lý trí và tiếng nói của con tim. Tiến trình trãi nghiệm vận dụng đầy đủ hoạt động của các căn bản thức (5 thức căn bản), của nhận thức (thứ thứ sáu), của ngã thức (Mạt Na thức , thức thứ 7, tích hợp thông tin), và của ký thức (A Lại Da thức , thức thứ 8, lưu giữ thông tin).
Cái vỏ trãi qua và "biết" toàn bộ tổng quát cũng như từng chi tiết các màn trãi nghiệm. Cái vỏ có được khả năng biết là vì cái vỏ có cái thể trí. Thể trí bên đạo gia gọi là giác hồn, phật gia gọi là tưởng thức, triết gia gọi là tri thức, khoa học gia gọi là nhận thức, người đời gọi là tâm trí. Thể trí giúp cho cái “tôi” biết. Thể trí giúp cho cái “tôi” nhận thức. Thể trí là chủ thể của mọi thứ được trãi nghiệm. Về phần này Des Cartes có một câu nói nổi tiếng: Tôi biết nghĩ cho nên tôi hiện hữu ("I think, therefore I exist.").
Trong khi cái vỏ lăng xăng trãi qua các tiến trình vật-hóa-sinh-tâm của các màn trãi nghiệm thì lúc đó có một khách thể lặng lẽ quan sát và lặng lẽ trãi nghiệm --thực sự trãi nghiệm-- các màn trãi nghiệm diễn ra nơi cái vỏ. Khách thể đó chính là linh thể. Khách thể "biết", thực sự biết, toàn bộ và từng chi tiết của các màn trãi nghiệm, và còn biết nhiều hơn thế nữa.
Thể trí là chủ thể trãi nghiệm còn thể linh là khách thể trãi nghiệm. Cái được trãi nghiệm (all that is experienced) là đối tượng trãi nghiệm của cả hai, chủ thể lẫn khách thể. Cái được trãi nghiệm (all that is experienced) lẫn chủ thể trãi nghiệm cái được trãi nghiệm (plus the host-experiencer of all that is experienced) đều là đối tượng trãi nghiệm của khách thể (Both objects are experienced by the guest-experiencer/observer).
Mỗi mọi cảm giác (each and every sensations), mỗi mọi nhận thức (each and every perceptions), mỗi mọi ý nghĩ (each and every thoughts), mỗi mọi tình cảm (each and every emotions), mỗi mọi ký ức (each và every memories), mỗi mọi hoài niệm (each and every memory flashbacks) mỗi mọi tư duy (each and every thinkings), mỗi mọi lý do (each and every reasons), mỗi mọi phân biệt (each and every distinctions), mỗi mọi phản ứng (each and every responses)... đến rồi đi, dấy lên rồi biến mất, sinh rồi diệt, có rồi không... đều là các trãi nghiệm.
TÂM TRÍ (the mind), một danh từ để gọi cái dòng chảy liên tục của vô lượng trãi nghiệm, cái dòng chảy liên tục của vô lượng sinh diệt, cái dòng chảy của vô lượng biến dịch, diễn ra ở một sinh mệnh từ lúc thọ mạng bắt đầu cho tới lúc thọ mạng kết thúc. TÔI, một danh từ lừa đảo gắn lên cái dòng chảy liên tục của vô lượng trãi nghiệm, cái dòng chảy liên tục của vô lượng sinh diệt, cái dòng chảy của vô lượng biến dịch, rồi tự ngộ nhận và mạo nhận "TÔI, tâm trí, một thực thể".
Trãi nghiệm dương gian có thể ví như tuồng hát trên sân khấu, diễn viên trãi nghiệm những màn diễn mà khán giả cũng trãi nghiệm những màn diễn. Chỉ khác ở chỗ diễn viên nhập vai và ngỡ màn diễn là thật, còn người coi thì không ngỡ màn diễn là thật mà chỉ chú tâm quan sát diễn viên nhập vai tới mức độ nào. Cái "vỏ/tôi" vì quá nhập vai nên mới dẫn tới trãi nghiệm đau khổ, như đã cho thấy trong đoạn: “Em nhớ anh! Em hận anh!”, tôi thì thầm. Giọt nước mắt nào mơ hồ lăn xuống làm môi tôi mằn mặn. Tôi chết lịm trong nỗi đau mưng mủ.” Thể trí đau khổ nhưng linh thể thì không. Thể trí thì "ngỡ rằng là" nhưng linh thể thì không. Thể trí mơ hồ nhưng linh thể thì không. Thể trí động loạn nhưng linh thể thì không. Thể trí là con khỉ đang cưỡi ngựa xem hoa nhưng linh thể là phật đà đang quan sát pháp giới. Thể trí hư cấu từ nhân duyên rồi trả về lại nhân duyên. Linh thể đến như thế đi như thế nên còn gọi là như lai.
Ai ý thức? Cả hai. Cái linh thể ý thức mà cái vỏ cũng ý thức. Từ Đạo gọi ý thức của cái vỏ là xác thức còn ý thức của linh thể là linh thức. Như đã nói qua, tất cả mọi thứ trong vũ trụ pháp giới đều được tạo từ Nguồn Tạo. Nguồn Tạo phóng thích vô biên năng lượng và vô biên tần số rung động hình thành mọi thứ trong vũ trụ pháp giới, và ngay cả cái toàn thể gọi là vũ trụ pháp giới. Cái vỏ xác thân hay linh thể cũng đều là hình năng lượng và nằm trong một dãy hẹp tần số rung động. Mà tần số rung động, như đã nói, chính là ý thức. Vì thế, cái vỏ xác thân cũng ý thức mà linh thể cũng ý thức. Cái vỏ xác thân rung động ở dãy tần số thấp còn linh thể rung động ở dãy tần số cao hơn. Theo đó, linh thể ý thức ở cấp độ cao hơn nhiều so với ý thức của cái vỏ xác thân.
Sẵn đây cũng nói luôn, dầu là chưa được hỏi, Thiền là phương pháp để nâng tần số rung động của xác thức lên cao, tới mức có thể tiến nhập vào tần số rung động của linh thức. Chính là vào giai đoạn đó, chính là vào thời khắc đó giới hạn của xác thức được phá vở và cái được gọi là hoàn toàn tỉnh thức (awakening) hóa hiện thực (realized). Tỉnh thức hoàn toàn là một cụm từ không gì khác hơn là diễn tả cái linh thức được nhận diện. Hai chữ trí tuệ cũng không gì khác hơn là diễn tả cái biết của linh thức. Cái tròn sáng viên giác không gì khác hơn là thuật ngữ diễn tả cái quang minh tỏa ra của năng lượng linh thức, không thấy được qua 5 giác quan của cái vỏ xác thân, kể cả giác quan thứ 6 (còn gọi là con mắt thứ 3). Nhập tri kiến phật không gì khác hơn là linh thức câu thông với Nguồn Tạo và từ góc độ của Nguồn Tạo trãi nghiệm toàn thể vũ trụ pháp giới.
VẤN ĐÁP 11
Khách Đạo hỏi: Những qui luật vận hành tự nhiên mà huynh đã đề cập là gồm những quy luật nào? Đức Ngài trả lời:
Có bốn quy luật tự nhiên cao nhất, trên tất cả mọi quy luật tự nhiên tương đối khác, chi phối toàn thể mọi linh mệnh và sinh mệnh trong vũ trụ pháp giới. Đó là quy luật sáng tạo, quy luật tiến hóa, quy luật âm dương, và quy luật thanh trược.
Tất cả mọi thứ trong vũ trụ pháp giới đều được sáng tạo, tiếp tục được sáng tạo, và luôn luôn được sáng tạo. Linh Lực Nguồn sáng tạo vũ trụ pháp giới. Mọi thứ trong vũ trụ pháp giới nguyên thủy lại sáng tạo ra mọi thứ mới trong vũ trụ pháp giới. Sáng tạo nối tiếp sáng tạo, không lúc nào gián đoạn, không lúc nào dừng lại. Sự sáng tạo cộng hưởng làm nên một vũ trụ pháp giới lúc nào cũng mới, lúc nào cũng lạ và lúc nào cũng vô biên hạn. Không một thứ gì thoát khỏi sự vận hành của quy luật sáng tạo.
Tất cả mọi thứ trong vũ trụ pháp giới đều tiến hóa, dầu có biết hay không biết đến tiến trình tiến hóa. Tất cả đều phải tiến hoá, dầu có chủ ý hay không chủ ý. Tất cả đều phải trải nghiệm qua các tầng tiến hóa, dầu chậm hay nhanh. Tiến hóa nằm trong sự vận hành của Linh Lực Nguồn và sự vận hành của quy luật sáng tạo.
Tất cả mọi thứ trong vũ trụ pháp giới đều chịu tác động của quy luật âm dương. Không có quy luật âm dương sẽ không có động lực. Không có quy luật âm dương mọi thứ sẽ đứng yên. Không có quy luật âm dương sẽ không có sự sáng tạo. Không có quy luật âm dương đã không có vũ trụ pháp giới này. Không còn quy luật âm dương sẽ không còn tồn tại vũ trụ pháp giới này.
Tất cả mọi thứ trong vũ trụ pháp giới đều chịu sự chi phối của quy luật thanh trược. Thanh nhẹ thì bay lên. Nặng trược thì trầm xuống. Càng thanh nhẹ càng lên cao. Càng nặng trược càng xuống thấp. Năng lượng cũng vậy (tiên thiên lượng), vật chất cũng vậy (hậu thiên chất), linh mệnh cũng vậy, và sinh mệnh cũng vậy, tất cả đều bị chi phối bởi quy luật thanh trược.
Còn có những quy luật tự nhiên khác mang tính tương đối. Tương đối vì chúng chỉ đúng ở một không gian này nhưng không đúng với không gian khác, chỉ đúng ở thời gian này nhưng không đúng với thời gian khác, chỉ đúng với sự tồn tại này nhưng không đúng với sự tồn tại khác… . Trong số những quy luật tự nhiên tương đối này có: quy luật sinh diệt, quy luật hóa hiện, quy luật hấp dẫn, quy luật tương ứng, quy luật nhân quả, quy luật duyên hợp, quy luật khuếch tán, quy luật câu thông, quy luật chiêu cảm, quy luật cộng hưởng, quy luật chuyển hóa, quy luật cân bằng, quy luật bảo tồn, quy luật ổn định, quy luật ngẫu nhiên, quy luật nghịch lý (universal paradox)… Sau này nếu có cơ hội chúng ta sẽ nói về những quy luật này.
VẤN ĐÁP 12
Khách Đạo hỏi: Thế nào là thế gian, dương gian, linh giới? Đức Ngài trả lời:
Sinh mệnh thuộc về dương gian còn linh mệnh thuộc về linh giới. Chúng linh rời khỏi linh giới tiến nhập vào cái vỏ vật chất để trãi nghiệm cuộc sống của một sinh mệnh nơi dương gian thì thành chúng sinh của dương gian. Thọ mạng hết thì linh mệnh rời bỏ cái vỏ vật chất, sinh mệnh chấm dứt, linh mệnh rời bỏ dương gian trở về linh giới. Linh giới là nhà của linh mệnh. Dương gian là quán trọ của linh mệnh. Sinh mệnh là một chuyến trần du. Thọ mạng là thời gian của một tour du lịch.
Linh mệnh cứ qua lại liên tục giữa dương gian và linh giới để trãi nghiệm, học hỏi, và tiến hóa. Linh mệnh ở cấp độ tiến hóa cao thì được gọi là linh mệnh cao tần tức linh mệnh tần số cao, những linh mệnh cao tần này thiên cư ở tầng thiên giới thanh tịnh. Còn linh mệnh tần số thấp thì lai vãng dưới thế gian. Chữ thế gian là muốn nói tới tất cả các cõi không thuộc thiên giới hư không thiên cư.
VẤN ĐÁP 13
Khách Đạo hỏi: Các ET có phải là Tiên Phật? Đức Ngài trả lời:
Các ET không phải là Tiên Phật. Các ET là những sinh mệnh cõi địa cư, có thân thể vật chất, là cư dân liên hành tinh trong một thái dương hệ, một thiên hà, hoặc có thể xa hơn là trong một quả địa. Trái đất (planet earth) của chúng ta nằm trong Quả Địa 68 (The Celestial Sphere 68th).
Có tất cả 72 quả địa (72 celestial spheres), nằm trong một bầu lớn gọi là Bầu Khôn hay Quả Khôn (The Grand Celestial Sphere), từ lớp ngoài cùng tới lớp trong cùng phân theo mật độ trược thanh của vật chất và theo đó là trình độ tiến hóa của cư dân địa cư, nặng nhất là lớp ngoài cùng, Quả Địa 72, và ít nặng nhất là lớp trong cùng, Quả Địa 1, tiếp giáp với Bầu Càn (The Grand Empty Sphere). Cả hai Bầu Khôn và Bầu Càn nằm trong Bầu Đại La Thiên (The Grand Multiverse Sphere).
Mỗi quả địa có vô số thiên thể trong không gian và vô số sinh mệnh địa cư. Cư dân cõi địa cư có thể phi thiên tức là có thể dịch chuyển trong thiên không một cách tự nhiên, ví dụ như loài chim, hoặc nhờ vào thần lực tự nhiên có, ví dụ như các loài thần vật naga, deva, kandara ... được các sách cổ nói tới, hoặc thông qua phương tiện chế tạo ra, ví dụ như loài người sử dụng phi cơ bay xuyên quốc gia còn ET sử dụng phi thuyền bay liên hành tinh. Cư dân cõi địa cư tuy có thể phi thiên nhưng tuyệt nhiên không thể đến và cư nơi cõi thiên cư. Chỉ có linh mệnh cao tần mới cư cõi thiên cư.
Cõi thiên cư có tất cả 12 tầng thiên giới với hơn ba ngàn thế giới (3k thế giới này là con số lúc Đại La Thiên mới hình thành). Cõi thiên cư là cõi hư không hoàn toàn, tức không có thiên thể nào trong bầu hư không đó, mà chỉ có các cung cõi tạo ra bởi linh lực của các thiên chủ, cung chủ, cõi chủ. Cư dân thiên giới không có thân thể vật chất. Tầng trên cùng (tối thượng thiên giới) gần sát với Linh Lực Nguồn là hư không tối đại niết bàn tịch lặng. Các linh mệnh tuyệt cao tần nơi hư không tịch lặng đó vô ảnh, vô hình, vô thanh, vô xú, vô phương, vô xứ, tất cả đều không.
Chư Thiên, tức là chư linh mệnh cư thiên đúng với nghĩa đen, chính là chư vị Tiên Phật theo danh gọi tôn giáo và văn hóa truyền thống cục bộ. Còn ET thì không phải. Họ là cư dân cõi địa. Dầu về mặt khoa học kỹ thuật họ có tiến xa tới đâu thì họ vẫn là cư dân cõi địa. Bởi vì có sự can thiệp của các loài ET vào trái đất và chia sẽ khoa học kỹ thuật để dẫn dắt loài người trên trái đất trở thành thành viên liên hành tinh cho nên rất nhiều người đã hoang mang và ngộ nhận.
VẤN ĐÁP 14
Khách Đạo hỏi: Những sinh mệnh bên ngoài địa cầu này có từng tiếp cận với hiền huynh? Hiền huynh có thể chia sẽ trãi nghiệm và hiểu biết của mình về họ cho chúng tôi nghe không? Đức Ngài trả lời:
Có. Từ Đạo không thích bàn luận về ET vì nếu không khéo có người sẽ cho rằng Từ Đạo đặt điều hư cấu. Nhưng nay các Hiền Đạo hỏi thì Từ Đạo cũng xin trình bày để mọi người suy ngẫm.
Khi Bát Nương còn tại thế, có 2 người ET thường tiếp cận ngài. Họ là bạn của Bát Nương không phải bạn của từ đạo. Thông qua Bát Nương, Từ Đạo cũng từng trao đổi một vài chuyện với họ vào khoảng năm 2007-2008.
Về mặt hình dạng thì họ không cao tới 1.5 mét. Da dầy và thô chùn có màu xám bạc. Đầu to, mắt to đen không mí, cổ nhỏ, tai dán sát vào đầu. Thân nhỏ, chân ốm. Toàn thể con người trông rất mỏng manh. Họ nói với Từ Đạo là họ không nhìn thấy được bất cứ vật thể nào từ khoảng cách một gang tay tới mặt đất. Từ Đạo đóan là do bức xạ địa từ. Từ Đạo không biết mắt con người nhìn thấy hình thể họ như vậy có thiệt là như vậy hay đó chỉ là một lớp vỏ bọc. Họ cũng có khả năng tàng hình, nếu họ muốn ẩn thân mình sẽ không thấy. Họ cũng dễ bị nhiễm phóng xạ nguyên tử và cũng có khả năng tự giải phóng xạ nguyên tử. Khi bị nhiễm phóng xạ thân họ trở nên lớn hơn gấp 2-3 lần bình thường. Có một lần họ bị nhiễm phóng xạ. Theo lời họ nói thì họ đã theo đoàn giám sát vào một lò nguyên tử của Pakstan nên bị nhiễm phóng xạ và họ cần một tạm trú vài tuần để điều trị. Bát Nương muốn cho họ ở tại nhà mình nhưng chư thiên không đồng ý nên bà phải đưa họ tạm trú tại tầng trên của chánh điện chùa Đạo Quang tại Texas, phía bên gần tượng đài ngài Đế Thích. Dĩ nhiên là có sự đồng ý của chủ trì, tỳ kheo Tịnh Đức, và dĩ nhiên là họ ẩn thân nên người khác không thể thấy. Bà Bát Nương biết lý do vì sao họ không thể về lại nơi trạm địa cầu của họ để điều trị. Bà có nói thoáng qua với Từ Đạo nhưng Từ Đạo không còn nhớ.
Họ rất thông minh và bén nhạy. Họ cho biết họ đến từ một hành tinh ngoài hệ thái dương của chúng ta nhưng không cách xa lắm. Họ giao tiếp với bà Bát Nương bằng tiếng lưỡi, rất nhanh và liên tục, và đôi lúc qua thần giao cách cảm. Ngoài những lúc xuất hiện trước mặt bà, họ còn có thể trao đổi tin tức với bà thông qua linh lực. Dầu họ đang ở rất xa nhưng khi bà Bát Nương muốn gặp họ thì chỉ cần vài phút là họ đã có mặt. Đến bằng cách nào mà nhanh đến vậy thì Từ Đạo hoàn toàn không biết. Ngày mà có một vụ xôn xao tin đồn về UFO bị bắn rơi tại vùng biển Phú Quốc thì bà Bát Nương và Từ Đạo đang có mặt tại phi trường Dương Đông chờ chuyến bay trở về Sài Gòn. Bà Bát Nương muốn Từ Đạo nán lại thêm hai ngày tại Phú Quốc vì có hẹn sẽ gặp họ tại một địa điểm ở bãi biển hướng ĐB Phú Quốc nằm sát Cambodia, nhưng Từ Đạo không đồng ý (vì Bát Nương không tiết lộ là có hẹn với họ, sau này bị Bát Nương trách cứ nên Từ Đạo mới biết). Đó là lần cuối cùng và về sau Bát Nương không còn cơ hội gặp lại họ nữa.
Họ cho Từ Đạo biết là có rất nhiều chủng loài ET đang có mặt tại địa cầu và đang quan sát mọi hoạt động của địa cầu, trong số đó có các loài ET thuộc mật độ cao. Tuy cùng một thiên hà nhưng cách chúng ta khá xa. Họ đến với lòng tốt, muốn giúp nhân loại phát triển đến mức có thể gia nhập cộng đồng liên hành tinh.
Họ không thích tất cả các hình thức bạo lực trên mặt đất, đặc biệt là chiến tranh giữa các quốc gia. Họ nói phần lớn khoa học kỹ thuật được họ và các loài ET khác chuyển giao cho nhân loại từ rất lâu. Đáng lẽ loài người đã có thể tiến xa hơn hiện nay rất nhiều. Nhưng vì loài người sử dụng khoa học và kỹ thuật không chính đáng, chỉ muốn tranh giành tài nguyên và hủy diệt lẫn nhau, nếu để cho loài người tiếp tục phát triển cao độ thì các cuộc chiến sử dụng vũ khí hủy diệt lớn trên mặt đất sẽ gây ra tổn hại cho cộng đồng liên hành tinh. Cho nên trong quá khứ cộng đồng ET, thông qua quyết định của Hội Đồng Thiên Hà (Galactic Council), đã từng thực hiện những lần đại hủy diệt để tái lập lại vì nhân loại đã đi tới mức đe dọa đến sự ổn định của toàn thể thái dương hệ và một phần nào đến sự ổn định của thiên hà. ET đã từng can thiệp và sẽ mạnh tay can thiệp nếu loài người không biết sống thân thiện với nhau và với cộng đồng liên hành tinh. Thiên niên kỷ mới này là thời điểm nhân loại "phải cố gắng hình thành những cơ chế mới" nhằm triệt tiêu những "mầm mống tranh chiến cục bộ giữa các quốc gia" và phải thật sự tạo lập "một nền tảng nhân văn vững chắc" hỗ trợ cho sự phát triển bền vững của "một cộng đồng nhân loại trưởng thành" và "hướng ra bên ngoài không gian để trở thành một thành viên đủ tiêu chuẩn và đáng tin cậy" của cộng đồng liên hành tinh. Nhân loài đang đứng trước bờ vực của thảm họa lớn nhưng đồng thời cũng đứng trước cơ hội có một không hai để nhảy vọt lên cấp độ tiến hóa mới. Những ai đủ điều kiện sẽ được chọn lọc, được che chở, để tiếp tục hành trình tiến hóa cao hơn ngay trên mặt đất này.
Họ cho biết phi thuyền vũ trụ của các loài ET đang có mặt quanh trái đất. Những phi thuyền lớn như một thành phố này ẩn mình trong không gian bằng những kỹ thuật họ tạo ra mà mắt thường không nhìn thấy được. Họ sẽ không đáp xuống “tiến chiếm” mặt đất như phim ảnh tưởng tượng. Họ sẽ lộ diện khi loài người đã sẵn sàng tiếp nhận bạn bè liên hành tinh.
Vài mươi năm gần đây họ chỉ mở ra các cổng xuyên không để tiếp xúc một số người. Những ai may mắn có thể đến với họ. Họ không gởi người ET xuống mặt đất nữa. Những gì mà loài người phát hiện bằng mắt chỉ là phương tiện bay điều khiển bằng ý thức (C-CRAFTS, conscious crafts) dùng để thâu thập dữ liệu trên mặt đất gởi về trạm chính chứ không có phi công ET bên trong, hoặc là để gợi ý cho biết có sự hiện diện của họ, hay là nhằm thiết lập phương pháp truyền thông phổ quát hiệu quả hơn giữa họ với loài người. Còn UFOs do loài người đang mô phỏng theo thì nhìn bên ngoài có giống với C-CRAFTS nhưng khoảng cách kỹ thuật thì còn kém rất xa vì chưa đủ năng lực tâm linh để tích hợp với phương tiện vật chất. Trong giai đoạn này có nhiều quốc gia trên mặt đất đang âm thầm chạy đua chế tạo UFOs. Không phải thiệt UFOs của người ngoài hành tinh nhưng đủ để gây hoang mang trên khắp thế giới.
Họ cũng cho biết ngoài các loài ET đang quan sát và đang giúp đở loài người, còn có các linh thể cao tần đang hiện diện và âm thầm giúp đở trái đất làm sạch những thứ bị ô nhiễm, như là nguồn nước và không khí, cũng như sửa chữa những tổn hại của trái đất, như là từ trường trái đất, tạm ngăn bớt những hậu quả khốc liệt sắp bùng phát nhằm giảm áp lực cho trái đất. Dĩ nhiên là họ có khả năng nhưng chỉ ở một mức độ nào đó, phần còn lại tùy thuộc vào ý thức và nỗ lực của nhơn loài. Những linh thể cao tần này sử dụng linh lực của họ để làm các công việc tẩy uế và sửa chữa. Họ không phải là người ET có mức độ phát triển cao mà là linh mệnh có năng lượng rung động ở tần số cao. Linh lực của họ rất mạnh mẽ và rất lớn. Họ không có thân vật chất. Nếu cần hiện thể thì họ sẽ mượn vật chất chung quanh để có hình dáng phù hợp với văn hóa tín ngưỡng truyền thống của đối tượng mà họ muốn cho cho thấy nghe.
Với từ đạo, dầu là ET hạ cánh hay là thiên thần hạ phàm thì mọi thứ trong vũ trụ pháp giới cũng chỉ là sự triển hiện của Linh Lực Nguồn ở các cấp độ khác nhau mà thôi. Từ Đạo cũng có nhiều điều muốn biết thêm nhưng rất tiếc là không có ET nào tiếp xúc với Từ Đạo mặt đối mặt nữa. Tuy nhiên, từ năm 2015 về sau, linh thể của Từ Đạo lại có những lần "tới làm việc" với các ET cao cấp, trên không trung và dưới đáy biển, trong lúc cái vỏ của Từ Đạo đang ngũ. Cũng như chúng ta, các ET cao cấp cũng là thành viên nằm trong Cộng Đồng Tam Cõi (cõi Thiên, cõi Nhân, cõi Địa) đang nhận lịnh của CHÍ TÔN và CÁC ĐẤNG TỐI CAO để thực hiện Cơ Đại Đạo Đại Đồng trong thời Thượng Ngươn Thánh Đức này. Cho nên không có gì là lạ lùng khi các vị Đạo Tôn và các ET gặp nhau và cùng nhau làm việc. Làm bất cứ việc gì trong thế gian thì các vị vô hình cũng mượn bàn tay hữu hình để triển hiện. Từ trước đến giờ luôn là như vậy. ET cũng là những bàn tay trong số những bàn tay hữu hình.