ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO
Thánh Tựa xuất bản kỳ nhì
_______
Cao-Đài Thượng-Đế
Thầy mừng các con.
Thi:
ĐẠI-THỪA căn bản đạo huyền thâm,
CHƠN-GIÁO tầm tu khỏi lạc lầm,
Kẻ trí xem qua tăng huệ trí,
Người mê đọc đến giảm mê tâm.
Tầm chương giải thích chơn-thường-Đạo,
Trích-cú ẩn-vi pháp diệu thâm,
Kinh Thánh truyền ban người hữu hạnh,
Đắc truyền mới rõ máy cao thâm.
Thi Bài:
ĐẠI-THỪA xuất bản kỳ hai,
Phục hưng CHƠN-GIÁO phổ khai Đại Đồng.
Đến ngày chỉnh lập Hoa Long,
Thế gian mới biết danh ông CAO-ĐÀI.
Kinh truyền chẳng luận dở hay,
Ai người huệ trí tầm ngay chơn truyền.
Là phương tạo Phật tác Tiên,
Là đường siêu thoát lưu truyền muôn năm.
PHÀM TỰ
BÀI CA TỤNG
Theo kinh điển của các Thánh-nhơn ngày xưa thì chỉ có ngôi Thái-Cực là tuyệt đối mà thôi, kỳ dư nhứt nhứt trong Càn-Khôn Võ-Trụ đều do luật "tương đối" mà ứng hiện. Lớn rộng bao la hơn hết là Trời với Đất, nhỏ nhít tế vi hơn hết là côn trùng mà còn tránh không khỏi sự phân tách ra nhị thể là Âm Dương thay, huống chi là người và các giống khác. Vậy luật tương đối là một luật chung của Càn-Khôn Võ-Trụ mà nhứt là cảnh Sắc-Giới này.
Cao-Đài Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã hiện ra nơi cảnh "Sắc-Giới" thì tức nhiên phải chịu dưới luật ấy mà phô diễn ra làm hai thể cách hữu hình là: Cao-Đài Đại-Đạo và Cao-Đài Tôn-Giáo. Hai thể cách này tức là "Tả Chi Hữu Dực" của Đạo Trời để tiếp tục nhau mà đưa quần linh từ cảnh "Vô Minh Khổ Não" của trần tục cho đến cảnh "Hư Vô Tịch Diệt", để cùng hội hiệp với Đấng Chúa Tể Càn-Khôn.
Cao-Đài Đại-Đạo thì hiện nay có chi Chiếu-Minh làm đại diện, chuyên về khoa bí-truyền, hay là khoa siêu phàm nhập Thánh.
Cao-Đài Tôn-Giáo thì hay về khoa phổ hóa mà hiện nay làm đại diện là: các chi phái bên "Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ" và phái "Tiên-Thiên".
Đã là "Tả Chi Hữu Dực" của Đạo Trời thì hai cơ thể "Bí-Truyền" và "Phổ-Hóa" phải liên hòa tương tiếp, tương trợ lấy nhau mới có thể chống vững Đạo Trời và làm cho cây Đạo đặng rườm rà sung túc thêm lên là vì:
Nếu không cơ "Bí-Truyền" thì cơ "Phổ-Hóa" không thể đưa người đến mục-đích cuối cùng của chữ "Tu" đặng. Như vậy, lý thuyết lấy đâu làm căn cứ cao siêu hầu phổ hóa Năm Châu sau này?
Trái lại khoa "Bí-Truyền" không khoa "Phổ-Hóa" thì lấy đâu tuyển chọn sĩ tử vào trường để cùng tuyên truyền mối Đạo "Vô-Vi" ?
Đường tu chẳng khác cuộc "Đăng Sơn" mà lưỡng khoa đã kể đó tức là hai khoảng tối trọng của con đường ấy. Từ chơn non đến bán lộ là về khoa Phổ-Hóa, từ bán lộ đến đảnh là về khoa Bí-Truyền.
Đôi khoảng phải tương tiếp nhau mới có thủ có vĩ, có thỉ có chung, đường tu mới trọn.
Cứ theo thứ tự niên ngoạt nhựt thời mà xét thì xưa kia khoa Bí-Truyền ra đời trước cơ Phổ Hóa. Nay khoa Phổ Hóa đã đi đặng một bước đường khá dài thì khoa Bí Truyền phải ra mặt mà đưa kẻ thiện duyên đến đảnh. Vì vậy mà ngày nay mới có quyển ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO.
Quyển ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO ra đời thiết tưởng là một sự đại hạnh, đại phúc cho quần linh vậy. Là vì từ xưa đến nay kinh sách luận về Đơn-Kinh không phải ít, nhưng lời nói rất u ẩn, lý thuyết rất kín đáo. Vì vậy chưa mấy bực đoạt đặng chơn truyền và sự lầm lạc thật vô số định.
Nay nhằm buổi Hạ-Nguơn, Thiên-Địa tuần huờn. Cơ "Tân-Dân Minh-Đức" sắp khai diễn hầu đưa người trở về thời Thượng-Đức, nên ĐẤNG CHÍ-TÔN vì lòng từ bi vô lượng, vô biên, mới hạ lịnh hội Tam-Giáo ban cho người đang cơn dỡ chết dỡ sống quyển kinh ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO này:
1) Để vẹt ngút mây mù ngàn năm hầu cho đời đặng trông thấy Đạo Trời một cách chánh đại quang minh, không còn chi gọi là mơ-hồ nữa.
2) Để rung động tâm hồn người thiện căn hầu cấp tảo hồi đầu tầm phương siêu thoát.
3) Phô trương một cách rõ rệt triết lý Cao-Đài Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ và chỉ rõ rằng : "Cơ siêu thoát không dành cho một hạng người, một chi, một phái hay một dân tộc nào".
Vậy, quyển kinh ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO tuy rằng do nơi: Trước-Tiết Tàng-Thơ chi: " Chiếu-Minh" mà sản xuất, nhưng nó vốn là chung cho các chi phái đã công nhận hai chữ CAO-ĐÀI và có lẽ là cho cả Tam-Giáo Cữu-Lưu nữa, vì lý chánh vẫn Một.
Trong Bữu Kinh này có một ít khoảng bàn đến Nhơn Đạo. Ấy là lý kín vậy: Ơn Trên khuyên đời nên giữ chữ Trung-Thứ để đi đến Đạo, vì Đạo thường trụ không ở thuyết Tuyệt Đối mà ở thuyết Trung-Dung.
Đời phải nương Đạo mới là "Thuấn Nhựt Nghiêu Thiên". Trái lại, Đạo phải nương Đời mới trọn câu Phổ Tế.
Vậy mong sao khi đọc Bữu Kinh ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO rồi thì khách thiện duyên mau tầm đường trở lại cựu quê, và các chi, các phái trong Cao-Đài Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tận tâm nổ lực hiệp với chi "Chiếu-Minh" để chấn chỉnh Đạo Trời hầu cứu độ vạn linh cho kịp kỳ Đạo mở.
TRẦN-VĂN-QUẾ
Đạo Hữu "Trước-Lý Minh-Đài"
Thành tâm ca tụng.
Sàigòn, ngày 19 tháng 11 dương lịch năm 1936.
LỜI CẦU NGUYỆN
Hoàn-cầu đang nháng chớp những lằn lôi-điễn, các dân-tộc đang hết lòng ái-náy phập-phồng với nạn chiến tranh, cái đời thống khổ khốc liệt gớm ghê cứ ngày càng hiện rõ hình trạng ra hoài, thì người đời lại há lẽ nào không biết chán?
Thế nên chán đời, sợ đời, tất phải ngày một đại đa số mãi ở trong nhơn loại. Nhưng chán đời, sợ đời lại không phải chỉ trốn phứt cái đời bằng một phát súng, bằng một sợi giây, hay bằng liều thuốc độc, mà tưởng là đã thoát khỏi đời? Vì, thưa chư quí đồng bào, lại còn cái luật Luân Hồi nữa chi?
Vậy chán đời, sợ đời mà muốn tránh ra cho khỏi là chỉ có một phương độc nhứt vô nhị, một phương chắc chắn rõ ràng như một với một là hai, phương ấy cũng chẳng gì đâu cho lạ, chỉ là một cái chữ "TU"
Này, như chúng tôi đây:
Cũng có người nơi hoạn lộ vì chữ danh mà vùng vẫy;
Cũng có kẻ chốn thương trường ham chữ lợi mà say mê;
Lại cũng có phường trong bốn vách dám quên mình mà nghiên ngữa;
Cũng có bợm giữa bảy tình không giữ tánh mà buông lung; rồi cũng có hạng muốn tuốt gươm vì cuộc thế mà mất còn;
Cũng có trang biết sôi máu với tình đời mà phấn đấu; nhưng, đến lúc sau này thì chúng tôi ngoài mặt chỉ buông xuôi theo giòng nước, miệng hử ừ qua buổi, mà vâng vâng với thế cho rồi, còn trong lòng lại đáu đáu đêm ngày trau tâm, sửa tánh, học đạo lo tu.
Chúng tôi điên chăng? Chúng tôi dại chăng?
Không..... Chúng tôi chỉ chán đời như vạn trùng thiên hạ chán đời kia thôi. Nhưng rất may cho chúng tôi là chúng tôi gặp được một nền Chơn-Giáo rất siêu việt hoàn toàn, nên chúng tôi hết sức hoan nghinh hân hạnh, vì chúng tôi mỗi ngày càng thấy rõ ràng hai chữ "Giải Thoát" nó ở mút con đường tu luyện của chúng tôi rất đổi sờ sờ chắc chắn, không còn một điểm tí gì ngờ vực nữa hết.
Được món quí bữu vô giá của Càn-Khôn Võ-Trụ ấy rồi, chúng tôi đã hết lòng cảm tạ Ơn Trên, chúng tôi lại muốn kêu to rầm rĩ cả góc Trời Nam để cùng hưởng với cả nhơn sanh cho phỉ dạ. Song khổ thay! Đạo chưa tới thời kỳ hoát khai độ chúng, nên chúng tôi phải ép lòng giấu kín mà ẩn dật tầm tu bấy chầy.
Bỗng đâu mới vừa năm ngoái rồi đây, khi Thánh-Đức Tổ-Đình ở Cần-Thơ cử hành đại lễ khánh thành, thì Đấng CHÍ-TÔN lại ban cho câu đối như vầy:
Chiếu sắc ĐẠI-THỪA qui bổn tánh
Minh truyền CHƠN-GIÁO phục linh-căn.
Thấy ẩn trong đôi liễn có bốn chữ "ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO"; lại có hứa sẽ minh-truyền, thì chúng tôi biết mấy trông mong ao ước. Nào dè Thiên tùng nhơn nguyện, hôm vừa cuối xuân, ĐẤNG CHÍ-TÔN lại thình lình sắc lịnh khởi từ ngày Sóc, trong tiết Trọng Thu, năm Bính-Tý này, CHÍ-TÔN sẽ bắt đầu ban cho nhơn loại một quyển ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO. Ôi thôi! Mừng này có biết lấy chi cân bằng. Chúng tôi liền vội vã lo việc phụng lục, rồi phổ thông, ấn tống tức thì.
Vẫn biết dùng cùng không dùng, nạp hay bất nạp là quyền riêng của mỗi người; song chúng tôi đây chỉ vì gặp được một bức họa đồ trong ấy đã bầy vẽ đành rành đường nẽo đi ngay đến cửa Giải Thoát, thì chúng tôi bao giờ há nở độc thiện kỳ thân, đành lòng cấp củm ôm riêng cho mình, nên lấy làm hân hạnh mà được phép đem ra cống hiến cho đồng bào cây "Kim Chỉ Nam" rất chắc thiệt, quí báu vô giá ấy.
Rất mong các bạn đồng nhân sẽ chẳng nệ công phu mà khảo xét chiêm nghiệm cho tận cùng đáo-để cái giáo lý trong mấy lời Thánh-Huấn trong Bửu-Quyện đây.
Được vậy, miễn được vậy chúng tôi cũng hết sức hài lòng vui dạ, mà cúi dâng Quyển Bửu-Kinh này cho tất cả đồng nhân trong hải nội.
Rất mong thay !
Đệ Tử phái "Chiếu-Minh"
(Trọng-Thu Bính-Tý 1936)
CHƯƠNG I
HÌNH-NHI HẠ-HỌC
GIÁO-LÝ CÔNG-TRUYỀN
_____________
4 tháng 9 Bính-Tý
THÁNH-TỰA
Thi
ĐỘNG lòng thương xót buổi đời nguy,
ĐÌNH hội Phật Tiên đã mấy kỳ,
HO điệp mê mang chưa tỉnh thức,
ĐẠI TIÊN TRƯỞNG giáng hoát vô-vi.
Bần-Đạo chào chư đạo-tâm. Bần-Đạo đắc lịnh giáng đàn trước phô diễn đôi lời Đạo-Đức hầu giác ngộ chúng sanh thức tỉnh tâm hồn mà truy tầm nguồn cội, sau nữa mừng Đại-Đạo ban hành quyển ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO để minh truyền diệu pháp độ rỗi nguyên-nhân, thoát kiếp luân-hồi, huờn nguyên phản bổn.
Thi
ĐẠI đức Nam Phương hóa Đạo Huỳnh,
THỪA cơ mật nhiệm thức tâm linh,
CHƠN truyền đạo chuyển qui linh tánh,
GIÁO dục hồn dân trí huệ minh.
Bài
Minh Chơn-Đạo thời kỳ mạt kiếp,
Thức tỉnh đời cho kịp Long-Hoa,
Phổ thông chơn-lý cộng-hòa,
Nhận nhìn cả thảy một CHA trọn lành.
CAO-ĐÀI-GIÁO lưu hành phổ tế,
Pháp chánh truyền cứu thế thoát nhân,
Bốn phương phát triển tinh thần,
Gội nhuần võ lộ hồng ân CAO-ĐÀI.
Gần tận thế NGÔI-HAI ra mặt,
Đặng toan phương dìu dắt chúng-sanh,
Chỉ tường cội phước nguồn lành,
Giác mê tỉnh ngộ tu hành siêu thăng.
Cuộc tang thương dữ dằn trước đó,
Mà nào ai có rõ chi đâu !
Rồi đây chung chịu thảm sầu,
Không nương đạo-đức khó hầu tránh tai.
Nạn khổ cuộc tương lai dữ dội,
Nhơn vật đồng thay đổi tiêu tan,
Có ai thấu máy hành tàng,
Dinh hư tiêu trưởng rõ ràng không sai!
Trời Phật thấy trần-ai đại họa,
Nên giáng phàm vớt cả tàn linh,
Rãi gieo chơn lý Đạo-Huỳnh,
Qui nguyên Tam-Giáo phục bình cơ quan.
Phóng thêm một con đàng chánh đại,
Để người tầm trở lại bổn nguyên,
Lâu đời Tam-Giáo thất truyền,
Ngày nay ĐẠI-ĐẠO dựng giềng qui mô.
Chỉ thấu chỗ hư vô tịch diệt,
Khoa bí-truyền vốn thiệt cao siêu,
Luyện thành bất diệt bất tiêu,
Vững vàng bền bỉ tiêu diêu lạc nhàn.
Bớ chúng-sanh ! linh thoàn chờ rước,
Rước những người hữu phước tiền căn,
Đời mà cãi hối ăn năn,
Tu đơn luyện Đạo siêu thăng cõi ngoài.
Thi
Ngoài cảnh Thần Tiên báu lạ lùng,
Chứa người phước đức hưởng thung dung,
Một màu thanh bạch không dời đổi,
Khoái lạc ở an mãi đến cùng.
Thời kỳ tận thế, nên chi ĐẠI-ĐẠO phục hưng, để độ rỗi linh-căn qui hồi cựu vị. Từ Bàn-Cổ sơ khai đến ngày Thánh-Nhơn xuất thế đem chơn truyền thuyết minh lý Đạo, bành trướng khắp bốn phương để tỉnh thế độ đời cho rõ lý cao siêu của Trời Đất, hầu tầm đường siêu thoát cho thuận với lý Thiên-Nhiên cơ Tạo-Hóa. Tam-Giáo phát hưng độ người thành đạo hằng hà sa số.
Đến ngày nay đã nhiều đời, nên chi cái giáo lý thất lạc chơn truyền, số tu luyện thì nhiều mà thành Phật, Tiên không đặng là vì khoa Nội-Giáo Bí-Truyền rất là u ẩn, Phật Tiên chẳng dám lộ bày để khẩu khẩu tương truyền, tâm tâm tương ấn, chớ không bày lậu ra cho người thế gian biết đặng. Pháp đạo u huyền nên tả chép vào đơn thơ để lưu truyền lại, nhưng những lời trong đó rất ẩn vi khó hiểu khó tầm. Mỗi vị tả ghi vào một ý đặt tên ra trăm ngàn thứ, làm cho đời sau khảo cứu lấy làm mờ-hồ.
Bần-Đạo xin kiếu.
30 tháng 7 Bính-Tý
KHAI KINH
GIÁC-MINH KIM-TIÊN.
Chào chư đạo hữu lưỡng phái. Tịnh đàn, tịnh tâm nghe:
Thi:
GIÁC ngộ Đạo mầu thoát khổ tâm,
MINH khai diệu pháp khả sưu tầm,
KIM quang chiếu tỏa tri cơ tạo,
TIÊN Phật giáng truyền Thánh bút lâm.
Giờ nay là chí nhựt NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ truyền mạng lịnh chuyển khai quyển ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO. Vậy thì chư đạo-tâm chí kỉnh chí thành cầu nguyện ĐẤNG CHÍ-TÔN ban phước lành tất cả vạn linh giác ngộ chơn truyền thoát ly u khổ. Vậy ngã báo tin trước cho chư đạo-tâm sắp đặt chỉnh tề, nghiêm lịnh có Thỉ-Tổ Đại-Tôn-Sư giáng phàm cùng là Tam-Thanh Thượng-Giáo ngự lâm phê quyển ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO.
Mỗi đấng ấy lâm cơ thì chí kỉnh chí thành, cúc cung thủ lễ, chư đạo-tâm tuân hành, Ngã xuất cơ.
* * * * *
Thỉ-Tổ Đại-Tôn-Sư
HỒNG mông phân định trược ly thanh,
QUÂN tử tri cơ tất đạt thành,
LÃO luyện chơn thân huờn chánh-giác,
TỔ truyền tâm-pháp khả cần phanh.
Thầy mừng các con. Thầy ban ơn lành cho các con.
Giờ hôm nay, vì lòng từ bi, Thầy thương xót cả chúng sanh nên phải nương gậy giáng đàn chỉ giáo cho rõ nguồn Đạo-Đức.
Thi
ĐẠI Đạo độ nhơn thoát hải trần,
THỪA thanh thăng thượng dĩ kim thân,
CHƠN như phản bổn nghi tu kỷ,
GIÁO khả hành chơn khiết trược phân.
Thầy rất mừng cho cả sanh linh trong thời kỳ thiên ám địa hôn này mà may đâu có ngọn đuốc thiêng-liêng soi sáng khắp năm Châu bốn Bể. Thầy rất mừng thay! vui thay! hân hạnh thay! cho các con. Thầy ban phước huệ cho mỗi con đạo-tâm rán lo tu luyện, lập công bồi đức.
Thầy thăng.
* * * * *
Tam-Thanh Thượng-Giáo
Thi
THÁI-Cực hư vô nhứt khí thiêng,
THƯỢNG thanh khinh, trọng trược ly kiền,
ĐẠO mầu năng độ thành Tiên Phật,
TỔ giáo chơn ngôn thị hữu duyên.
Thầy mừng trong hàng đệ-tử cùng các đẳng chúng sanh. Thầy lấy làm vui mà đặng thấy ngày hạnh phúc chung cho nhơn loại. Vì lòng từ bi, ĐẠI-ĐỨC CHÍ-TÔN hạ mạng lịnh, chuyển khai "ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO" độ rỗi nguyên nhân phục hồi cựu vị.
Thi
ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO chuyển lần ba,
Độ dẫn sanh linh đến Bửu-Tòa,
Thoát khỏi mê đồ vui thắng cảnh,
Đạo mầu chấn chỉnh hội Long-Hoa.
Thầy ban phước lành cho các đệ-tử và mừng cho các đẳng chúng-sanh.
Thầy thăng.
* * * * *
Thi
NGUƠN thần dục đắc hữu minh quang,
THỈ khả phân thanh phản vị Càn,
THIÊN thị Hà-Đồ Càn vi chủ,
TÔN chi vi Đạo thiểu tri tàng.
Thầy mừng chư môn-đồ.
Trường Thiên
Thầy ngồi trước án ngó ra,
Phút vừa mạng lịnh Bửu Tòa đem sang.
Nên chi lật đật giáng đàn,
Chuẩn phê Chơn-Giáo lưu truyền độ dân.
ĐẠI-THỪA NGỌC-ĐẾ ban ân,
Chuyển tâm tánh thiện bước lần nẽo ngay.
Phật Tiên Thần Thánh châu mày,
Vì thương sanh chúng đọa đày trầm luân.
Đã mê đấm tục quen chừng,
Lạc xiêu ngoại Đạo máng chưn bẩy dò.
Đời sao đời chẳng biết lo?
Gây ra tội lỗi khổ to nạn đầy.
Ba phen vì Đạo vì Thầy, (cười...)
ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO lần này tỉnh mê.
Biết căn tầm lối băng về,
Đoạn dây oan nghiệt đặng kề Ngọc-Kinh.
Bảo tồn tịnh luyện nguơn-tinh,
Hiệp cùng thần khí điểm linh phục hườn.
Dùng phương chế thuốc luyện đơn,
Cho thành Đại-Giác Chơn-Nhơn phi phàm.
Mùi đời đừng có mến ham,
Phật Tiên phẩm ấy lên làm khó chi.
Khuyên cùng sanh chúng tu đi !!!
Coi trong phép nhiệm huyền ky (cơ) thể nào?
Chớ đừng luận biện thấp cao,
Rồi không phanh-luyện phải nhào lộn đa !!!
Thi
Đa ngôn khuyên bỏ tánh tâm phàm,
Chi đó mùi đời chỉ mến ham,
Ham chuộng lợi danh sa địa phủ,
Sao bằng đạo-đức cố công làm.
Thầy ban ơn lành chư môn-đồ. Thầy thăng.
* * * * *
Thi
LINH quang chiếu diệu hiệp thiêng-liêng,
BỬU pháp thần thông chánh Đạo truyền,
THIÊN địa tuần huờn qui bổn tánh,
TÔN thành cơ ngẫu phản huờn nguyên.
Bần-Đạo mừng chư hiền đồ. Giờ hôm nay Bần-Đạo đắc lịnh Thượng-Hoàng, nên chi phải lật đật giáng phê Thánh tựa.
Thi
ĐẠI hóa Càn-Khôn hạo khí đơn,
THỪA cao quán triệt Đạo minh tồn,
CHƠN thanh lý mục khai tâm tánh,
GIÁO hóa thức thời đắc hội nguơn.
Cười, cười.... Vì buổi đời hạ nguơn, cơ tuần huờn dĩ đáo, nên chi ĐẠI-ĐẠO phục hưng, chơn truyền phát khởi. Nhưng cõi trần ai là nơi chung chạ, ngọc trắng cát lầm, vàng thau lộn lạo, chánh hưng tà dấy, phàm thánh lẫn nhau, chưa phân bạch hắc. Phật Tiên giáng thế, thì ma quỉ cũng ra đời . Trời độ rỗi chúng-sanh, quỉ giựt giành nhơn loại. Đó là thời kỳ bá đạo cạnh tranh, kẻ hữu phước Trời giành, người vô phần quỉ giựt.
Ngày nay, ĐỨC CHÍ-TÔN vì lòng bác ái bao la mới ban cho đời một quyển "ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO" mà biện minh hư thiệt giả chơn để giúp cho đời có thể tầm lối chánh, lánh đường tà mà thoát nạn chung trong trần cấu.
Quyển kinh nầy là hồi chuông giác ngộ, tiếng trống tỉnh mê, ngọn đuốc Nhựt Nguyệt quang minh sáng soi khắp cả Càn-Khôn Thế-Giới.
Thăng.
Rằm Tháng 8, Bính-Tý
TAM-GIÁO THÁNH-NHƠN
Thi
KHỔNG môn giáo huấn Đạo luân thường,
PHU ngoại Càn-Khôn đắc tánh dương,
TỬ phủ an vui mùi đạo lý,
Giáng sanh Châu mạt đợi Linh-Vương.
Bần-Đạo miễn lễ, chào chư liệt đẳng hiền đồ.
Bần-Đạo lấy làm vui lòng đẹp ý mà trông thấy thời kỳ Đạo-Đức chấn hưng, Phật Tiên giáng thế, kinh Thánh lưu truyền. Ấy là hạnh phúc chung cho toàn thể chúng-sanh. Bần-Đạo ước mong sao chư liệt đẳng hiền đồ phấn chí tu luyện cho đạt thấu cơ mầu nhiệm, lý vô-vi, hầu khêu sáng ngọn đuốc tinh thần mà cứu vớt trăm họ, muôn dân lạc lầm vào con đường tăm-tối.
Thi
Vẫn ước mong cho cọng-lạc hòa,
Tinh thần phát triển thế âu ca,
Quốc dân xướng dậy tu Thiên Đạo,
Phong hóa tô thêm mới mẽ mà! ...
Trường Thiên
Một mình ngồi trước Động Đào,
Toán cơ Tạo-Hóa lẽ nào tương lai.
Dòm đời than vắn thở dài,
Nhơn dân mê mết sắc, tài, lợi, danh.
Phút đâu có lịnh Tam Thanh,
"Tàng-Thơ Trước-Tiết" lập thành quyện kinh.
Mời Già giáng điển thiên linh,
Chiếu phê Thánh bút thuyết minh chơn truyền.
Nên chi vội vã đi liền,
Cỡi mây thẳng đến đàn tiền chuyển cơ.
Thấy đời không lẽ bỏ lơ,
Nên chi trao quyện Đồ Thơ Đạo mầu.
Họa may có ích về sau,
Nhơn sanh tỉnh ngộ quày đầu về nguyên.
Nhớ xưa Thánh Đạo ban truyền,
Dựng nền phong hóa chỉnh yên cuộc đời.
Do theo pháp luật cơ trời,
Cang thường luân lý cho người noi theo.
Hầu toan tránh sự lầm eo,
Chỉ phương thoát kiếp nạn nghèo họa tai.
Tùy tùng cổ vãng kim lai,
Định hồn quốc chủng đức tài phô trương.
Trung dung noi đấy làm gương,
Chỗ minh Minh Đức là phương siêu phàm.
Than vì người cả tánh tham,
Ưa bề giả tướng mến ham tục đời.
Làm cho Nho-Giáo rã rời,
Tiếc chưng nền cũ tơi bời đổ xiêu.
Về phần thực tế thì nhiều,
Tam cang thường ngũ làm điều luật chung.
Luận qua Đại-Đạo Trung-Dung,
Chưa ai nghe thấu chỗ cùng Đạo-Nho.
Rừng nhu biển thánh khôn dò,
Tam-Tông Đạo ấy một lò sanh ra.
Càng ngày chí thiện càng xa,
Nhơn tình đạm bạc, lòng tà dấy lan.
Đời rày hung bạo ngỗ ngang,
Lòng người bất chánh, dạ càng bất nhơn.
Nên chi Quỉ giận Thần hờn,
Trời ghen Đất ghét chịu cơn khổ sầu.
Họa tràn dẫy khắp Năm Châu,
Thiên tai, Địa ách khó hầu thoát thân.
Xanh kia một đấng cầm cân,
Thưởng răn cho kẻ hữu phần vô duyên.
Thấy đời thêm luống não phiền,
Vô hình Phật, Thánh, Thần Tiên thở dài.
Động lòng Thánh-Chúa Ngôi-Hai,
Cảnh Tiên đành bỏ, chẳng nài khổ lao.
Lâm phàm khai hóa Đạo Cao,
Ban truyền chánh pháp, luyện trau tinh thần.
Thuyền từ tế độ nguyên nhân,
Thả dòng biển khổ cứu phần trầm luân.
CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO chấn hưng,
Tam nguơn dựng lại phong thuần âu ca.
Xưa kia Tam-Giáo Tam-Tòa,
Ngày nay chung lại một nhà phổ thông.
Thuyết minh chánh lý Đại Đồng,
Làm cho con Lạc cháu Hồng mở mang.
Dựng đời Ngũ-Đế Tam-Hoàng,
Trăm nhà muôn họ vững vàng thảnh thơi.
Chưa ai thấu đáo cơ Trời,
Rồi ra kích bác lắm lời dị đoan.
Đạo Cao sắp đặt lớp lang,
Chia ra nhiều hạng thế gian dễ tìm.
Đạo Trời phẳng lặng im lìm,
Thấp cao nặng nhẹ, nổi chìm vốn không.
Thi
Không ấy là phương thoát kiếp trần,
Đêm ngày đào tạo vóc kim thân,
Hư vô tịch diệt cơ siêu thoát,
Thanh tịnh tâm an cảnh xuất thần.
Kệ
Thành lòng đão nguyện Tiên Gia,
Lui về Tây Vức là nhà Thánh-Nhơn.
Thăng.
* * * * *
Thi
LÝ đào mầm tược tượng long lân,
LÃO luyện đơn thành nhị xác thân,
TƯۍ phủ ngồi tu lo nấu thuốc,
Giáng sanh Thương đợi, Võ-Đinh-Quân.
Bần-Đạo chào chư liệt đẳng hiền đồ.
* * *
Kinh Thánh ẩn vi lý Đạo mầu,
Lịnh Trời ban xuống dễ gì đâu!
ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO minh Thiên-lý,
Độ tận chúng-sanh thoát bể dâu.
* * *
Trường Thiên
Ngồi trong Động phủ chế đơn,
Xây lò Bát-Quái hiệp huờn âm dương.
Thuốc linh nấu uống sanh trường,
Dày công cố chí mới tường phép linh.
Bỗng vừa ngó trước Đơn-Đình,
Thiên cung hạ lịnh phê kinh ĐẠI-THỪA.
Vội vàng giá võ đến trưa,
Thuyết minh cơ Đạo, mây mưa tỉnh hồn.
Cho đời mở hoát trí khôn,
Hầu toan thoát khỏi cái phồn dị đoan.
Xưa tô nền tảng vững vàng,
Nhưng cao quá độ người càng khó leo.
Máy linh khó thế lộ dèo,
Đài cao trăm trượng rán trèo mới hay.
Phép mầu rõ đặng hiếm ai,
Bị chưng then đóng cửa gài khó vô.
Ẩn vi trong Bát-Quái đồ,
Có chìa khóa phép mở xô vô tìm.
Vô-vi lặng lẽ trang lìm,
Ngấm mò đáy biển châu chìm vớt lên.
Tu đơn chí khí vững bền,
Để tâm thanh tịnh làm nền Tiên-Gia.
Đạo truyền im ẩn sâu xa,
Chỉ phương tu luyện thoát ra biển trần.
An vui mùi Đạo Thánh Nhân,
Song tu tánh mạng diệt lần nghiệp duyên.
Say mê gặp chỗ bổn nguyên,
Quày đầu trở lại cho yên tánh tình.
Đơn thơ lý Đạo phát minh,
Nhưng nay sai lạc giữ gìn ích chi?
Đời còn biến cải tai nguy,
Nhơn sanh cơ thể suy vi rất nhiều.
Thuốc xưa nay uống bao nhiêu,
Nhưng không trúng bịnh khó tiêu đặng mà!
Bịnh nay thời khí bất hòa,
Phải dùng đơn dược chế ra hiện thời.
Ắt là hết bịnh như chơi,
Người tu cũng thế tùy thời qui y.
Thi
Y pháp hành trì cửu khiếu thông,
Đạo-tâm thanh-tịnh chiếu minh hồng,
Hiệp-hòa thần khí nương hơi thở,
Thường chuyển pháp-luân hội cọp rồng.
Bần-Đạo chào chư hiền đồ, Bần-Đạo lui. Thăng.
* * * * *
Thi
SĨ tâm ái chúng đọa luân-hồi,
ĐẠT Đạo độ đời trở lại ngôi,
TA quyết phá tan vòng tứ khổ,
Chiêu-Vương giáng thế điểm tô bồi.
Bần-Đạo từ bi, chào các môn-đồ.
Thi
ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO góp đầy pho,
Đạo lý thuyết minh rán kiếm mò,
Kinh báu lưu truyền đời thoát khổ,
Ai người căn kiếp sớm toan lo.
* * *
Lo phương chống vững cuộc tương lai,
Níu Đạo tu đơn kẻo lạc loài,
Thuận mạng Thiên-cơ hành chánh Đạo,
Khuyên đừng lưu luyến chốn trần-ai.
* * *
Phật Giáo dạy đời một chữ "KHÔNG",
Hư vô tịch diệt chốn Tiên-Bồng,
Bất sanh bất tử cơ nhàn lạc,
Phục đắc linh-căn đạo-lý thông.
Các môn-đồ rán tu tịnh. Bần-Đạo ban ơn chung, Bần-Đạo lui.
15 tháng 8 Bính-Tý
CAO-ĐÀI XUẤT THẾ
ĐẠI-ĐẠO HƯNG-TRUYỀN
Thi
CAO Tiên xuống thế độ nguyên nhân,
ĐÀI bửu rước ai đã thoát trần,
GIÁO dục đời mê ra trí huệ,
CHỦ덊tâm phân định luyện tu cần.
Thầy các con. Thầy mừng các con.
Các con nam nữ tịnh tâm nghe:
Thi
Kinh truyền xuống thế giải oan khiên,
Một bộ ẩn vi Thánh-Đạo truyền,
Nghĩa lý đầy pho cơ xuất thế,
Ai người hữu hạnh gặp lời Tiên.
Thi Bài
Hồng-trần nô nức đua tranh,
Xô qua đẩy lại giựt giành lấn chen.
A nhào vào chỗ đê hèn,
Than ôi! Bươm-bướm mê đèn chết thân!
Làm người dễ có mấy lần,
Tam sanh hữu hạnh mới gần Phật Tiên.
Mấy khi gặp Đạo hưng truyền,
Thiệt là phước đức người hiền biết bao!
Ngắm xem kim cổ lẽ nào,
Những trang quân tử anh hào xưa nay.
Muốn tầm Đạo thoát trần ai,
Dày công khổ trí đêm ngày vái van.
Núi cao cũng phải tầm sang,
Công phu khổ hạnh chí càng nông thêm.
Điều qui cựu pháp khép kềm,
Sắc tài tửu khí không thèm mến ưa.
Rửa lòng ăn những muối dưa,
Mượn y bá-nạp mà chừa dục-tâm.
Người tu giả dại, giả câm,
Giả đui, giả điếc lo tầm Đạo cao.
Thủ thường phận giữ thanh cao,
Nhứt tâm, đại chí anh hào vượt qua.
Khử trừ muôn quỉ, ngàn ma,
Thất tình lục dục nên xa lánh chừng.
Lửa lòng dập tắt không hừng,
Thức thần sai khiến thì đừng nghe theo.
Nặng mang xác thịt hiểm nghèo,
Mà còn lội suối, băng đèo khổ tâm.
Mấy ai cho khỏi lạc lầm,
Vì chưng xác thịt ưa tầm chuyện hư.
Dục tình luyến ái nên trừ,
Những điều ưa chuộng thì từ nó ra.
Để tâm an-tịnh, điều-hòa,
Qui nguyên tam ngũ một nhà chung vui.
Con rõ Đạo, con biết mùi,
Thì con lựa chọn tới lui nẽo nào?
Tinh thần đừng để lảng xao,
Tâm hồn lay động quỉ ào chen vô.
Mắt, tai, mũi, miệng, ý, đồ,
Chớ buông lung nó mà khô tinh thần.
Nặng nề mang một chiếc thân,
Đường xa muôn dậm khó gần mà mong.
Dẫu dùng sức ngựa truy phong,
Mãn đời cùng kiếp cũng không tới mà !!!
Chừng nào các trẻ nghe Già,
Luyện đơn, tu tịnh chỉ khoa bí-truyền.
Cho mà tạo Phật, tác Tiên,
Quay tròn bánh phép, Đạo huyền phát khai.
Xuất thần ra mấy cõi ngoài,
Nghêu ngao cảnh lạc trần ai thông đồng.
Linh-hồn hiệp khí hư không,
Nội trong nháy mắt tri thông Đất Trời.
Mặc tình bốn biển vui chơi,
Bỏ rồi xác thịt, mở rồi cùm gông.
Tu Tiên giữ tánh "KHÔNG KHÔNG",
Toan phương tháo cổng, phá lồng nhảy ra.
Sự đời đừng có đắm sa,
Vô-vi thanh tịnh hiệp hòa Thần Tiên.
Thi
Tiên Phật cũng dùng một phép tu,
Mà thành chánh quả vẹt sương mù,
Người đời bao nỡ chôn hình ảnh,
Muôn kiếp không ra khỏi ngục tù.
* * *
Phước lành ban bố tiết Trung-Thu,
Non nước đầy vơi một bóng thu,
Thu ở thu về ai có biết?
Thu qua rước khách, khách nào tu !!
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Đàn 24 tháng 9 Bính-Tý
GIẢI NGHĨA BỐN CHỮ
"ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO"
Lý-Thái-Bạch Đại-Tiên-Trưởng, Bần-Đạo mừng chư hiền nam nữ.
Bốn chữ ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO nó có nghĩa lý rất cao siêu mầu nhiệm.
Chữ ĐẠI là lớn. Đã rằng lớn thì còn chi lớn hơn nữa. Nó có thể bao quát cả Càn-Khôn Võ-Trụ, nó cao thượng vô hình; không chi ngoài nó đặng.
Đã vậy, nó còn có một cái nghĩa riêng về lẽ Đạo nữa. Nghĩa riêng nó như vầy:
Chữ Đại ( ) là chữ Nhơn ( ) với chữ Nhứt ( ). Chữ "Nhơn" là người, viết hai phết, tức là âm dương hiệp nhứt, mà âm dương hiệp nhứt thì phát khởi Càn-Khôn hóa sanh vạn vật.
Vã nhơn là người, hễ người biết tu luyện cướp đặng cơ mầu nhiệm của Tạo-Công thì là đắc nhứt. Mà nhơn lại đắc nhứt nữa (chữ Nhơn thêm chữ Nhứt là Đại) ( ) thì vĩnh kiếp trường tồn, diên-niên bất hoại.
ĐẮC NHỨT là gì ?
Nghĩa là đặng MỘT. Một tức là cái pháp độc nhứt vô nhị, cái pháp kín nhiệm, huyền vi của Tiên, Phật, khẩu truyền tâm thọ, để cổi xác phi thăng, siêu phàm nhập Thánh. Có câu: Thiên đắc nhứt: Thanh, - Địa đắc nhứt: Ninh, - Nhơn đắc nhứt: Thành. Trời đặng MỘT ấy mà khinh thanh, - Đất đặng MỘT ấy mà bền vững, - Người đặng MỘT ấy mà trường tồn.
Chử THỪA là phẩm bực, cao thì tuyệt mù, thấp thì thấp tột đáy. Nó không giới hạn định phân. Nhỏ như hột cát, lớn tợ Thái Sơn. Nó bao quát Càn-Khôn Võ-Trụ. Thầy tùy theo trình độ tấn-hóa nhơn sanh mà ban hành Đạo-Đức. Bực thông minh trí tuệ hay là hạ tiện thường nhơn cũng có thể tu theo được.
Chữ CHƠN là Chơn-Lý. Cái Chơn-Lý của Trời ban ra. Ai ở trong Trời Đất cũng phải tuân hành mạng lịnh. Hễ thuận tùng Chơn-Lý ấy thì đặng an nhàn tự-toại, còn bỏ xa Chơn-Lý ấy phải chịu khổ sở ngu hèn.
Hay cũng có nghĩa: CHƠN là chơn-truyền. Truyền cái cơ Đạo bằng cách chơn thật, rõ ràng, không ẩn núp cao xa sâu kín mà làm cho chúng-sanh phải khó hiểu, khó tìm, rồi thất lạc chỗ chơn-truyền đi.
Chữ GIÁO là dạy cho người đời biết rõ căn bản, linh tánh phục hồi. Chữ giáo là giáo hóa, giáo dục cho nhơn quần xã hội, phá mê những kiếp đã mang tội lỗi nặng nề. Nhờ cái cơ Giáo mà loài người được tấn hoá một cách lẹ làng, bước đến nấc thang văn minh, tinh thần đạo-đức đời nọ sang đời kia, liên tiếp mãi nhau, không bao giờ ngừng nghỉ.
Còn nói tóm bốn chữ ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO thì:
ĐẠI-THỪA là phương pháp tu luyện cao trỗi hơn mấy bậc tiểu-thừa. Để riêng cho hạng người chán Đời tầm Đạo, thoát kiếp luân-hồi, tầm nơi an nhàn, thanh tịnh là cảnh Bồng Lai. Những phép ĐẠI-THỪA đó thuộc về tâm pháp bí-truyền, cái Thiên-Cơ bí mật của Thánh-Nhơn khẩu khuyết tâm-truyền để cho người tu cầu bất sanh bất tử.
CHƠN-GIÁO là cái cơ siêu hình bài tỏ lẽ vô-vi chơn lý, đem cái phép chơn thật mà dạy đời tu hành cho khỏi nghịch với Thiên-cơ, phạm vào đường tội quá. Có Chơn-Giáo là vì Tam-Giáo đã thất chánh-truyền. Ngày nay ĐẠI-ĐẠO phải phục hưng đem cái cơ mầu nhiệm để truyền dạy người đời được thoát kiếp trần ai mà đoạn dứt mối dây luân-hồi quả báo, lấp biển khổ, đổ thành sầu, nhơn loại mới mong nhảy ra khỏi cái bầu tang thương biến cải được.
Ấy là nghĩa của bốn chữ: ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO vậy. Bần-Đạo thăng.
25 tháng 9 - Bính-Tý
CHỈ Ý THUYẾT MINH
Thi:
CAO Thượng bổn nguyên Đạo chí thành,
ĐÀI tiền chực rước đám lương sanh,
GIÁO minh chơn lý truyền tâm-pháp,
CHỦ ý vào lòng rán luyện phanh.
Thầy mừng các con. Thầy miễn lễ các con.
Phú:
Đời cùng cuối, Phật, Tiên giáng hạ, đem Đạo mầu phổ hóa khắp Đông Tây.
Cuối hạ nguơn máy Tạo vần xây, nạn tiêu diệt, sự họa tai không tránh khỏi.
Cơ dĩ định tang thương biến cải, ôi! là đời sao quá dại chẳng thức lý tầm nguyên.
Phong tục đành loạn lạc ngữa nghiêng, bỏ mất mối giềng của Đạo Trời là luân-thường cang-kỷ.
Sao mà đời không chịu gia tâm suy nghĩ, để đặng tầm thiên-cơ cầu diệu-lý mà luyện-kỷ, hầu quày trở lại chỗ nguyên thỉ cựu ngôi.
Để làm chi cứ mang lấy nạn khổ mãi luân-hồi, Thầy dòm thấy luống chua xót đứng ngồi không yên dạ.
Nên hội Tam-Giáo công-đồng, Thầy lập tờ đoan thệ, đem Đạo mầu phổ hóa độ tất cả đám quần sanh.
Nếu các con chẳng chịu tu hành, không bỏ dữ làm lành, Đạo không thành Thầy nguyện không trở về ngôi vị cũ.
Dạy hết tiếng mà cớ chi con không lưu tâm ký chú: khượi tinh thần nghe những lời Từ-Phụ nhủ khuyên con.
Dẫu méo kia Thầy nắn, đúc cũng ra tròn, bởi thương trẻ nên chìu lòn mà dìu dắt trẻ.
Thấy các con như gà kia lẻ mẹ, đương lúc còn bập-bẹ, chít-chiu nhau.
Thiệt là đời tai biến biết là bao: Lửa luyện tội thay hình đổi dạng.
Cuộc tiêu-trưởng dinh-hư bày trước mắt, mà mấy ai tường hản, giáo lý truyền làm lơ lảng, con cái vầy cũng đáng phạt trừng thay.
Thiệt là Thầy vì thương yêu mà chịu trăm đắng ngàn cay, chìu lòn thế hạ mình độ thế, đã nhíu mặt nhăn mày biết bao là chua xót.
Đại ân xá tội tình thì các con nên trau giồi cạo gọt cho sạch lòng, lấy thuốc thần khử tiêu loài sâu mọt nó ăn ruồng trong cốt-tủy ngoại bì-phu.
Thầy dạy con, con giác ngộ tầm tu, tu luyện Đạo, Thầy mới thể độ ra khỏi chốn âm-phù về nơi Cực-Lạc.
Tâm thanh tịnh thì tinh thần khai phát, nhờ chí cao thượng đạt mới cướp đặng Thiên-cơ.
Sao các con ngáo-ngáo ngơ-ngơ, tâm trí vẫn mập mờ, làm như khờ như dại?
Lời Đạo-đức Thầy truyền là hoát thông chánh đại, làm thì không làm, mà canh cải cho thất lạc hỏng hư đi.
Thầy thương con nên Thầy phải từ bi, chớ quyền thưởng phạt Thầy sợ gì không trừng trị.
Sao các con phụ phàng không biết nghĩ, lại đem Thầy nạp cho lũ quỉ, ma mà chịu thịt đổ máu rơi.
Nhưng quá lòng từ bi thương cả mọi nơi, nên phải chịu lăn lóc với đời mà dựng gầy Đạo-Đức.
Thầy dòm thấy những hạng người trí thức, lại toan lòng cướp giựt mà hiếp bức kẻ hiền ngu.
Nếu như vầy thì đời phải chịu lờ lu, chuộng vật chất, mê tửu khí sắc tài, đành chôn nhốt trong ngục tù của ma quỉ,
Người hối hận lo tu hành mà bươn bã quày đầu về nguyên thỉ, hiệp cùng Trời là đắc chí của bực thiện lương,
Trước mắt con, trăm nẽo nghìn đường, chọn cho đặng một cái thẳng về chốn quê hương, khỏi lầm tà quái giáo,
Các con bị biết bao thành kiến bao quanh, những màn u minh che phủ, nào thấy tường pháp nhiệm mầu của cơ Tạo.
Bị thất-tình lục-dục làm mờ ám cho tinh-thần lộn-lạo, nên sa lục-đạo chịu luân-hồi.
Cả tiếng kêu, bớ các con ôi! Thầy là Chúa-Tể bỏ vị ngôi xuống phàm cứu thế.
Công cực khổ, Thầy đâu có nệ, miễn sao con biết thấu cuộc giả trò đời là tệ, nghe lời Thầy tu cho đoạt huệ mà siêu xuất cõi hư-linh.
Chốn thế gian là trọng-trược vật chất hữu hình, không bền vững; nó tan nát thình lình như đám mây đương nổi,
Cái xác thịt tạm thời trong một lúc thì cũng tiêu tan như áo ngoài con cổi, cổi cho rồi thiệt nông nỗi vàn muôn.
Thi
Muôn kiếp các con chịu lạc đường,
Thấy vầy Thầy luống động lòng thương,
Nên đoan thệ với hàng Tiên Phật,
Lập Đạo không thành chịu tội ương.
THẦY LẬP CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO NHƯ THẾ NÀO ?
Thầy thấy cuộc đời biến đổi, thời khí bất hòa, nhơn-tâm xu hướng về đường vật chất, bỏ mất tinh-thần, nên phạm vào đường tội lỗi, thiệt là đời lầm-lũi mãi mà không định hồn tự hối, xúm lấn chen lội-lặn tranh giành mùi tục lụy mà thay đổi chí cao minh.
Ba nền Chánh-Giáo (NHO, THÍCH, ĐẠO) đã nghiêng chinh, nhơn loại thảy chuộng hữu hình, không cần vô-vi thâm-viễn.
Nay đã đến thời kỳ cuộc tuần huờn giáp nối, nền ĐẠO-TRỜI vận chuyển mà phổ hóa sanh linh.
Tam-Giáo xưa kia lập Đạo, lúc ban sơ truyền bá cơ diệu-lý quang-minh, bắt từ chỗ vô-vi khẩu thọ tương truyền, lần lần xuống thì trở ra hữu hình mà Đạo mầu thất chánh, tâm-pháp lạc sai, ấy là cơ Đạo đến thời kỳ cuối cùng của Tam-Giáo thất chơn-truyền diệu-pháp.
Còn Đạo Thầy lại trái hẳn với Tam-Giáo là bắt đầu truyền Đạo thì dụng hữu hình, lấy sắc tướng, âm thinh mà độ đời một cách lẹ làng, mau chóng. Vã lại Đạo Thầy bắt đầu do chỗ hữu hình mà truyền bá, rồi lần lần mới dẹp hết chỗ hữu hình mà đi đến chỗ vô-vi, là cơ siêu phàm nhập thánh. Vậy thà trước dụng cơ hữu hình để phổ hóa cho cơ Đạo dễ lưu thông; rồi cứ đó mà dắt dẫn cho nó tấn-hóa mãi trên đường cao thượng, riết đến chỗ không-hư tức là vô-vi thì Đạo-pháp mới phát minh, cơ diệu-lý huệ-tâm ứng lộ; thế là Đạo Thầy không hư hoại đặng. Mà không hư hoại đặng là nhờ ở chỗ hữu hình đi lên riết đến tận vô-vi. Còn Tam-Giáo xưa lại từ vô-vi mà lần lần sa sút xuống hữu hình mới thành đạo bế, rồi sai lầm ra ngoại giáo bàng môn.
Mà Thầy lập giáo kỳ này lại trái hẳn với nền cổ Đạo. Thầy chỉ dùng cái huyền-cơ bí-pháp mà truyền Đạo khắp dân gian. Thầy đem chơn pháp diệu-huyền trao cho người luyện thành chánh-giác thì phản-bổn huờn-nguyên. Thầy dùng huyền diệu cơ bút để hoằng khai cơ-quan vô-vi Đại- Đạo. Thầy nhứt định không giao Thánh-Giáo cho tay phàm nữa, vì trước kia Tam-Giáo thất chơn-truyền là cũng bởi Thánh-Giáo ở trong tay phàm, nên các con canh cải làm sái lạc pháp linh. Vậy Thiên-Thơ Thầy định ngày nay Thầy lập giáo như vầy:
1) Trên là dùng huyền-diệu thiêng-liêng mà bảo tồn cơ Đạo.
2) Dưới để tự Thầy định mới có thể chuyển hóa nổi nhơn-tâm, đủ sức thần thông, vận hành Chơn-Giáo, chớ nếu Thầy mà mượn xác thịt nặng nề thì làm sao biến hóa thiên hình vạn trạng mà phổ độ chúng-sanh cho mau chóng nổi-sôi, rần-rộ được; chớ dùng huyền-cơ bí-pháp tất có thể lưu thông nháy mắt khắp mọi nơi. Nhưng Thầy cũng phải chịu nhọc giáng thế mượn xác phàm NGÔ-MINH-CHIÊU đặng Thầy đem cái chơn pháp tâm-truyền mà trao lại cho các con để các con giữ gìn hầu có trao lại cho người thiện căn hữu phước. Thầy lại luyện cho các con thấy cái pháp bí diệu đó đặng rõ cơ mầu nhiệm siêu phàm, tạo Thánh Thai, để cho linh-hồn nương đó mới trở về chỗ hư-vô hiệp với Thầy là nơi an-nhàn khoái-lạc. Xong rồi Thầy lại trở về đặng dùng huyền pháp thiêng-liêng mà chuyển hóa chúng-sanh tuyên-truyền Chánh-Đạo.
Tại sao Thầy đã nói: không giao Chánh-Giáo cho tay phàm và không xuất thế, mượn xác phàm như Tam-Giáo, mà rốt cuộc Thầy cũng có xuất thế, cũng có trao chơn pháp cho các con. Thầy giải cho các con rõ:
Nguyên Tam-Giáo ngày nay đã thất kỳ truyền, tôn chỉ lạc sai, cơ quan siêu đổ, cho nên tu thì nhiều mà không ai thành chánh quả, vậy nên nay Thầy phải giáng thế mượn xác phàm đặng đem cái tâm-pháp bí-truyền ấy trao dạy cho chúng-sanh để thoát vòng sanh tử. Nếu không mượn xác phàm mới làm sao mà trao cái bí pháp đặng cho các con. Hễ bí pháp thì khẩu-khẩu tương-truyền, tâm-tâm tương thọ, không được thấu lậu ra cho ai hay biết đặng, hoặc tỏa vẽ, giải phân trên giấy mực hay là dùng cơ-bút mà truyền bí pháp đặng.
Cơ bút là để nắm quyền hành Đạo-giáo mà phổ hóa chúng-sanh, để làm ngọn đuốc quang minh mà dẫn dắt người đến chỗ bổn nguyên là cùng mục-đích đó thôi. Ấy nghĩa là Thầy dùng cơ bút mà truyền Đạo-Đức-tinh thần và huấn luyện vạn linh cho trở nên hạng người chí-đức cao-siêu Tiên, Thánh, Phật vậy.
Các con phải biết, các con tuy thọ bí pháp mặc dầu, chớ cũng phải chịu dưới quyền lực thiêng-liêng sai khiến. Các con nào có dối đặng với Thầy đâu?
Các con nên biết "Đạo Mầu Làm Bửu-Phan Tiếp Dẫn". Thầy ban ơn các con, Thầy thăng.
2 tháng 8, Bính-Tý (1936)
ĐẠI-ĐẠO LUẬN
Thi:
NHỨT khí hư vô tác tạo thành,
BỬU mầu Đạo hóa trược phân thanh,
CHƠN linh đắc ngộ tâm minh huệ,
NHƠN trí thức tu pháp nhiệm hành.
Ngã chào chư đạo-tâm nam nữ lưỡng phái.
Giờ nay ngã lai đàn là vì mạng lịnh Bề-Trên sai khiến, đến báo tin chư hiền thành tâm, nghinh Thánh-Giá CHÍ-TÔN ngự lâm giáo Đạo. Ngã chào, ngã lui.
* * *
Huyền-Khung-Cao Thượng-Đế Ngọc-Hoàng Đại Thiên-Tôn tá danh Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma Ha-Tát.
Thầy các con. Thầy mừng các con.
Thi:
NGỌC sắc gia ban quyển Đại-Thừa,
HOÀNG thành Đạo tỉnh giấc mây mưa,
THƯỢNG căn đắc ngộ tu tâm tánh,
ĐẾ vị hồi nguyên chí mới vừa.
Giờ nay, Thầy lâm phàm bưng chén thuốc phá mê để cứu đoàn con đang luống ngây ngô trong trần ai khổ hải. Các con khá biết rằng Thầy là một đấng toàn tri toàn năng, thống chưởng quyền hành, hồng oai hồng thiện, chẳng phải không đủ quyền lực thiêng-liêng mà thưởng phạt các con, nhưng vì lòng từ bi, Thầy quá yêu thương các con, phải lăn lóc cùng các con mà độ rỗi các con thoát khỏi chốn mê đồ.
Thi:
ĐẠI-Đạo chấn hưng phổ hóa thành,
THỪA cơ vận chuyển độ nhơn sanh,
CHƠN truyền hoằng hóa vi Tiên Phật,
GIÁO dục quần linh thuận mạng hành.
Đạo là gì?
Đạo là hư vô chi khí, Đạo rất mầu nhiệm, sâu kín cao siêu. Trước khi chưa có Trời Đất đã có Đạo. Vậy Đạo đã tạo dựng nên Càn-Khôn Võ Trụ, hóa sanh vạn vật muôn loài. Muôn loài vạn vật phải thọ bẫm khí hư vô mà sanh hóa mãi.
Đạo ấy ai làm chủ?
HỒNG-QUÂN LÃO-TỔ làm chủ nó, vì đã chuyển pháp-luân mà sáng tạo muôn loài. Đạo sanh Trời Đất, Trời Đất cũng phải dưới quyền hành của lẽ Đạo. Đạo không bao giờ hư hoại được, bền vững hoài. Các con không nên giờ khắc nào xa nó, còn nó thì sống, xa nó thì chết. Các con nghe:
Trường Thiên
Đạo mầu sản tạo Càn-Khôn,
Hư vô chi khí Chí-Tôn chưởng quyền.
Hóa sanh Phật, Thánh, Thần, Tiên,
Muôn loài vạn vật lưu truyền thỉ chung.
Đạo vô tận, Đạo vô cùng,
Đạo là mẹ đẻ khắp chung muôn loài.
Đạo phân ngôi thứ Tam Tài,
Đạo châu vi độ trần ai vững vàng.
Đạo còn, người, vật bền an,
Đạo lìa, một khắc tiêu tan xác hồn.
Đạo truyền dại trở nên khôn,
Đạo ra cốt yếu bảo tồn chúng-sanh.
Đạo CAO nay đã lập thành,
Đạo khai pháp luật ban hành thế gian.
Đạo minh minh đức tăng quang,
Đạo huyền thống nhứt hành tàng Thiên-cơ.
Đạo nay phản bổn huờn sơ,
Đạo phân định trước ngày giờ qui nguyên.
Đạo làm người hóa Thánh, Tiên,
Đạo ban huấn luyện đời hiền hậu lai.
Đạo mầu luân chuyển hoát khai,
Vận hành nhựt nguyệt trở day ngũ hành.
Đạo Huỳnh tế độ chúng-sanh,
Đạo là Thiên-lý lưu hành ngày đêm.
Đạo không giảm bớt tăng thêm,
Đạo là lặng lẽ khép kềm vạn linh.
Đạo Trời vô ảnh, vô hình,
Vô-vi, vô xú, vô thinh, vô trần.
Đạo Trời chẳng ngoại nhơn thân,
Đạo khi trồi sụt, xa gần lại qua.
Đạo không xen chánh lẫn tà,
Đạo không non nớt, yếu già, mau lâu.
Đạo trung cơ bí nhiệm mầu,
Đạo "Không Không" ấy quày đầu về nguyên.
Đạo nuôi nấng giữ mối giềng,
Đạo hưng tâm-pháp bí-truyền luyện phanh.
Đạo dạy bỏ dữ theo lành,
Đạo phân thứ lớp đành rành tinh hoa.
Đạo phân một, một, hai, ba,
Là ngôi Thái-Cực Chúa-Cha chưởng quyền.
Âm dương hiệp với ngôi Thiên,
Hóa sanh vạn vật mối giềng chẳng xao.
Một hai ba ấy lẽ nào?
Cho đi khắp chỗ cũng vào một ngôi.
Đạo Thầy con chớ buông trôi,
Đạo qui nhứt thống phục hồi linh-căn.
Đạo Thầy là ngọn bửu đăng,
Đạo soi sáng khắp như trăng đêm rằm.
Đạo thường ẩn núp nơi tâm,
Đạo đâu non núi mà tầm nhọc công.
Đạo Trời, người muốn rõ thông,
Đạo diệt nhơn dục, tâm không tỏ tường.
Đạo Thầy phưởng phất mùi hương,
Mà không thấy rõ nẻo đường nào ra.
Người xa Đạo, Đạo không xa,
Muốn tri Đại Đạo, lòng tà đừng mang.
Thi
Mang kiếp trần ai chịu não nồng,
Nỗi vì quả nghiệp mảng long đong,
Tùy cơ Tạo-Hóa đền oan nghiệt,
Muốn thoát luân-hồi học chữ "Không".
Các con thành tâm nghinh THÁI-THƯỢNG giải tiếp về chữ Đạo. Thầy ban ơn các con. Thăng.
TẠI SAO CƠ ĐẠO RẼ CHIA?
Thi:
THÁI hòa sản xuất Thánh, Thần, Tiên,
THƯỢNG hạ chung lo nắm mối giềng,
ĐẠO rẽ chia ba Trời định trước,
TỔ quyền giáo dục chỉnh qui quyên.
Thầy mừng trong hàng đệ-tử
Thi Bài:
Cơ Đạo chuyển Pháp linh ứng hóa,
Độ quần sanh tất cả an nhàn,
Đời còn tai biến thảm than,
Người người ưa chuộng theo đàng hư danh.
Bỏ Đạo-Đức tu-hành luyện tập,
Toan lẫn nhau bẫy rập hại đời,
Động lòng ngôi cả Chúa-Trời,
Thương đoàn con dại cãi lời nhũ khuyên.
Phế Ngọc-Kinh giáng miền trần thế,
Đem Đạo mầu phổ tế chúng-sanh,
Dạy cho thấu đáo cội nhành,
Phục hưng Tam-Giáo ban hành lý công.
Nho, Thích, Đạo Tam-Tông chưởng Đạo,
Đoạt Thiên-cơ lập giáo trần ai,
Dùng phương cơ nhiệm hoằng khai,
Lâu năm tâm-pháp đổi thay thất truyền.
Pháp Như Lai, cửa Thiền chế cãi,
Dùng hữu hình cho sái Phật-Tông,
Thinh âm sắc tướng tràn đồng,
Làm cho xa mất chữ Không đâu rồi!
Đạo Tiên-Giáo phục hồi tánh mạng,
Chế ngũ hành tỏ rạng tam nguơn,
Tâm thanh tịnh, luyện linh đơn,
Lưu hành Thiên-lý phục huờn nhơn-tâm.
Đạo thâm viễn người tầm chẳng thấu,
Nên càng ngày ẩn giấu nơi trong,
Về sau hậu học bất thông,
Đem ra họa vẽ cua còng lôi thôi.
Nền Khổng-Giáo buông trôi ngàn dậm,
Chúng hậu-nho chác lắm điều hư,
Ôm gìn hạ học khư khư,
Chuộng phần thi cử lợi tư cho mình.
Nên Tam-Giáo phát minh một lúc,
Truyền tinh thần un đúc quốc dân,
Đời sau ưa thích chuyện gần,
Lưu thông sấp xuống lần lần thất danh.
Nay CHÍ-TÔN lập thành Đại-Đạo,
Hiệu CAO-ĐÀI phục đáo linh-căn,
Trời hôm nhờ ngọn huệ đăng,
Dắt dìu sanh chúng tầm phăng mối giềng.
Nhưng Đại-Đạo tách riêng nhiều phái,
Để tùy nhơn không phải thất truyền,
Đạo chia tiền hậu nhị thiên,
Về khoa Siêu-Thoát, tâm-truyền cơ quan.
Lánh tục thế tầm đàng Đạo-Đức,
Xa tình đời hiệp nhứt bổn nguyên,
Ngày đêm luyện Đạo, tham thiền,
Là Cơ Xuất-Thế Tiên-Thiên phục hồi.
Cơ Nhập-Thế trau giồi hạnh đức,
Giữ Tam Cang, tâm nhứt, ngũ thường,
Thuận tùng luật chánh làm đường,
Công truyền giáo hóa là phương giúp đời.
Thi:
Đời Đạo nên lo nối bước theo,
Đời không Đạo-đức chịu mang nghèo,
Đạo đời tương ứng thành an trị,
Đời Đạo thấp cao cũng rán trèo.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
NỀN TẢNG CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO
Thi:
GIÁC đạo thông thường lý chánh chơn,
MINH tâm dưỡng tánh luyện kim đơn,
KIM thân đắc ngộ siêu tam giới,
TIÊN Phật chứng thành gội đức ơn.
Chào chư hiền nam nữ kim đàn. Ngã giờ hôm nay, vì đắc lịnh CHÍ-TÔN đến bày tỏ đôi lời Đạo-Đức. Vậy chư hiền thành tâm tịnh đàn, nghe tiếp.
Trường Thiên:
Đạo đời hai nẻo lại qua,
Người tu khuyên khá tìm ra cội nguồn.
Trần ai ngây ngất khói un,
Nhơn tình chôn đắm vào khuôn khổ đời.
Kìa là vật đổi sao dời,
Non mòn biển cạn cơ Trời biến thay.
Họa chung chịu những đắng cay,
Biết phương thoát khỏi trần ai não nùng.
Đời người sao khỏi kiết hung,
Nương thoàn Đạo-đức vẫy vùng thoát mê.
Thi:
Mê đắm tình đời luống khổ tâm,
Muôn thu chịu mãi bước sai lầm,
Xa đường Thiên-Đạo không trông thoát,
Nhơn dục cháy bừng đốt trí tâm.
Tâm phàm tử, Đạo-đức sanh,
Làm cho trí huệ hiệp thành Phật, Tiên.
Nương thoàn thẳng tới Đào Nguyên,
Là nơi an lạc niên niên hưởng nhàn.
Phú:
Bần-Đạo dòm thấy cuộc đời người biết bao nhiêu hạng mê say vì tửu khí sắc tài,
Mà đành chôn hết cả thân mình vào trong gió bụi,
Kiếp người ngắn ngủi, thoạt mất thoạt còn,
Luyến hồng trần làm mờ ám trí huệ sắc son.
Sa mùi tục tiêu mòn tinh thần Đạo-đức,
Ai là người trí thức, ai là kẻ hiền nhân,
Trải mắt xem thời cuộc quốc dân thì rõ biết luân thường đà bại hoại.
Lửa tham dục lừng lên cháy mãi,
Sóng ái tình bủa khắp chỗ, làm phá hoại nền phong hóa suy tồi.
Khói độc bay khắp chỗ, nhơn vật đồng mê mẫn lúc tỉnh hồi say.
Ôi ! là khổ mà mấy ai dòm ngó kỹ!
Thi:
Ngó kỹ mà coi khổ quá chừng,
Sóng tình cuồn cuộn sớm dời chưn,
Nhảy ra cho khỏi vòng nô lệ,
Dụt tắt lửa lòng Đạo-đức hưng.
Thi Bài:
Đuốc chơn lý khêu đà sáng tỏ,
Đạo-đức truyền đời rõ căn nguyên,
Hồi đầu thọ pháp tâm-truyền,
Lo trau luyện tánh, Phật, Tiên đắc thành.
Xa nẻo Đạo tánh lành mờ ám,
Khối tinh thần suy giảm muội mê,
Cả mang tham dục nặng nề,
Thê thằng tử phược khó bề thoát thân.
Chôn trí huệ trong trần đày đọa,
Bỏ thiện căn tai họa chập chồng,
Cuộc đời có hóa ra không,
Bỡi chưng cá chậu chim lồng khổ thay!
Đời loạn lạc miệt mài tâm trí,
Đạo suy tồi ma quỉ hừng lên,
Phá hư giáo lý móng nền,
Muôn nhà trăm họ tiếng rền thở than.
Nay Đạo-đức mở mang phong hóa,
Tỉnh quốc hồn lánh họa an nhàn,
Bước theo thẳng một con đàng,
Trở về cựu vị hưởng nhàn thiên thu.
Mặc kẻ thế võng dù xe ngựa,
Lòng nhiễm trần lo rửa cho ra,
Hiệp thành chơn lý tinh ba,
Sửa mình nên Đạo ôn hòa thiện lương.
Thi:
Lương phương diệu dược đã tầm ra,
Ắt dứt si mê hết bịnh tà,
Hồn vía tỉnh say thì tự hối,
Khử trừ dứt tuyệt chứng trầm kha.
Thành tâm tiếp giá PHỤ-HOÀNG ngự lâm. Ngã chào chư hiền, ngã kiếu. Thăng.
* * * * *
Thi:
NGỌC minh chiếu diệu bửu linh thiên,
HOÀNG phụ hoát khai pháp-chánh-truyền,
THƯỢNG đức tịnh tâm tu đắc quả,
ĐẾ căn phản bổn hiệp thiên nhiên.
Thầy các con. Thầy mừng các con.
Thi:
Thiên nhiên lý Đạo chẳng phai mòn,
Mòn ấy là do tại các con,
Con biết siêng năng đào luyện mãi,
Thì là sáng suốt tợ châu son.
Son sắt một niềm chớ đổi thay,
Gìn ghi Thánh huấn Đạo phô bày,
Nương thoàn bát nhã hồi nguyên bổn,
Níu vững chơn truyền kẻo sẩy tay.
Sẩy tay lọt tuốt xuống A-Tỳ,
Chịu những khổ sầu rắc rối nguy,
Mờ mịt biết đâu tầm trở lại,
Chung quanh bao chặt bít đường đi.
Đi lại mấy lần dạy bảo con,
Siêng năng tu tịnh phận lo tròn,
Sớm khuya chăm chỉ cơ siêu thoát,
Thiện phước vò tròn một quả ngon.
Quả ngon dành để đợi chờ con,
Hưởng thử đào tiên vĩnh kiếp tồn,
Tự toại tiêu diêu nơi đảo Thánh,
Vui say mùi Đạo chốn Bồng-non.
Non Tiên dưỡng tánh mấy muôn đời,
Khổ hạnh trải qua khắp mọi nơi,
Tấn-hóa noi theo chơn lý Đạo,
Dày công mới thể đoạt cơ Trời.
Cơ Trời mầu nhiệm dễ gì tầm!
Suy nghĩ cho ra tránh lỗi lầm,
Thoát kiếp luân-hồi nhờ trí huệ,
Siêu phàm nhập Thánh tại nơi tâm.
Tâm giác làm nên Phật, Thánh, Tiên,
Người tu noi đấy đoạt nhơn duyên,
Tâm mê dẫn dắt làm ma quỉ,
Lộn kiếp lông sừng chịu đảo điên.
Điên đảo lòng con nỗi Đạo đời,
Đời còn rộn rực luyến mê chơi,
Đạo thì cũng muốn tu thành Phật,
Theo Đạo thì con lại tiếc đời.
Tiếc đời nên cứ đắm vùi thân,
Thầy đến vớt lên đã mấy lần,
Tánh tục vẫn ưa màu sắc đẹp,
Lòng phàm khó dứt khổ mê tân.
Tân trào cuồn cuộn sóng văn minh,
Bủa khắp nền nhân đã gập ghình,
Gió phất bùa mê đời muội trí,
Dấy hừng vật chất thấy mà kinh.
Kinh sợ sau này có chuyện nguy,
Sanh linh chung chịu cuộc sầu bi,
Thầy thương không lẽ khoanh tay ngó,
Lập Đạo toan phương giải thoát thì.
Thì giờ Thầy đã tái lâm rồi,
Che chở cho đời tránh khúc nôi,
Những tưởng tin và hành Đạo-đức,
Thầy dùm giúp sức thoát luân-hồi.
Hồi nào mê-muội lỗi lầm sanh,
Biết Đạo toan phương tập tánh lành,
Vùng vẫy thoát ra màn hắc ám,
Chống đương lũ quỉ bước cho nhanh.
Nhanh lẹ kịp đò kẻo trể con!
Trể chơn trông đợi trí tâm mòn,
Bao giờ gặp đặng thuyền qua nữa,
Tiếng trống giục hồn tỉnh thức con.
Con thông đạo lý của CAO-ĐÀI,
Luyện vóc kim thân trí huệ khai,
Tấn-hóa tự-nhiên đừng vọng tưởng,
Tưởng đều hình bóng đó là sai.
Thầy giải sơ về "Nền Tảng Cao-Đài Đại-Đạo".
Cái qui củ chuẩn thằng của Đạo-đức phải noi theo mà hành cho trúng phép, chớ nên canh cãi phải sai lạc chơn truyền.
Về phương pháp tu tánh luyện mạng, thì vô-vi, vô xú, các con tu luyện phải lo dụng công vận chuyển pháp-luân y theo tâm-truyền khẩu thọ. Nên hay không, là về phần trừu tượng vô-vi, các con lấy trí phàm mắt tục mà lường đo dòm ngó sao thấu đáo? Thành hay không, là tại nơi các con trọn đủ đức-tin, siêng năng tập luyện, về phần vô hình thì trên có Thầy bố hóa cho, các con nào biết chi mà mong mỏi.
Đạo mầu một ngày một mở mang rộng lớn, người tu cũng thế. Luyện đơn nấu thuốc không phải một ngày một buổi chi mà thành, phải tận tâm trì chí cứ lo tu gom thần nhập định, bảo tinh, dưỡng khí, tồn thần, lâu ngày tụ kết lại thành nhị xác thân nhưng phải luyện cho đủ đầy ngày tháng, chớ đừng nóng nảy. Thí như cái cây, gieo hột xuống, nứt mộng lên hai lá, lần lần đâm tược nhảy chồi, đơm hoa trổ trái , là do nơi quyền luật thiêng-liêng. Nó hấp thụ khí âm dương mà lần lần to lớn. Chớ có ai làm cho nó lớn đặng? Và muốn mau trổ trái đơm bông bao giờ? Xưa người nước Tống cấy mạ thấy lâu lên, nóng ra nhớm gốc cho nó cao thêm, không ngờ phải chết. Ấy là cái triệu chứng để cho các con noi đấy làm bằng, cứ lo tu tịnh đừng nhiều chuyện lắm lời, tầm kinh điển, đơn thơ, làm cho trí óc mờ hồ lộn xộn. Thánh hiền xưa lấy (mượn) nhiều tên đặt để ra món này vật kia, muôn đường nghìn ngõ, nào là long hổ giáng thăng, Càn-Khôn giao hiệp, biết bao nhiêu là tên, người sau lầm tưởng mà làm sái quấy luôn.
Đạo Thầy không chi lạ: ÂM với DƯƠNG, THẦN với KHÍ; không ngoài ra lẽ đó. Các con muốn rõ Đạo thì dùng Âm Dương là căn cơ vậy.
Trường Thiên:
Dựng nền tảng ĐẠO CAO-ĐÀI,
Phổ thông chánh pháp chia hai chơn truyền.
Hữu hình hiệp với thiêng-liêng,
Thì là rõ thấu căn nguyên Đạo mầu.
Định hồn thấy hiện minh châu,
Chiếu soi khắp cả Hoàn Cầu quang huy.
Tâm-truyền Nội-Giáo Vô-Vi,
Là cơ xuất thế hồi qui Động-Đào.
Luyện hồn sáng suốt thanh cao,
Linh-quang sẽ đặng nhập vào bổn nguyên.
Chừng nào quả mãn công viên,
Bửu phang chực rước thiêng-liêng trở về.
Đạo làm người hết mẫn mê,
Đạo hưng thâm thúy ắt kề Phật, Tiên.
Chỉ phương nhập định tham thiền,
Tri cơ căn Đạo bí-truyền luyện tu.
Vẹt lằn khói tỏa sương mù,
Chín tầng Trời Đất thanh-u thông-đồng.
Thầy truyền có một chữ "Không",
Chữ "Không" làm đặng lục thông chứng thành.
Người tu tập sửa tánh lành,
Cho ra vẻ Đạo cho rành lý chơn.
Đáp đền cho vẹn nghĩa ơn,
Nhẫn hòa, khiêm nhượng, lòng nhơn trải đời.
Đừng làm chuyện quấy trò chơi,
Noi theo Thánh-Triết truyền lời lại kia.
Siêng cần dậy sớm thức khuya,
Đạo-tâm một khắc đừng lìa nó ra.
Người mà để Đạo-đức xa,
Nội trong giây lát quỉ ma xen vào.
Tưởng tin Tiên, Phật trên đầu,
Giúp mình tu luyện dài lâu vững bền.
Tuyệt nhiên thanh tịnh là nền,
Dụng công khổ hạnh mới nên Thánh Hiền.
Dễ gì làm đặng Phật, Tiên!
Đặng là nhờ pháp bí-truyền mà thôi.
Ngoài ra thì khó mong rồi!
Tu không luyện mạng luân-hồi hưởng an.
Dẫu nhiều công đức thế gian,
Sau này hưởng phước giàu sang với đời.
Dễ chi nhập đặng cửa Trời,
Dễ chi thoát khỏi luân-hồi tử sanh!
Tại sao? Tại chẳng chí thành,
Kim-thân chẳng có, cao thanh khó về.
Xác phàm chất trược nặng nề,
Linh-hồn chôn chặt không bề nhảy ra.
Những giây cột trói lắm đa,
Không tường manh mối khó mà mở xong.
Dính theo thể phách ngoài trong,
Nặng nề trầm xuống mỏi mong gì thành.
Linh-hồn tuy vẫn trường sanh,
Thần thông quảng đại vận hành thiêng-liêng.
Luận qua Ngoại-Giáo Công-Truyền,
Phổ thông chơn lý Đạo huyền độ nhơn.
Dạy người chí thánh chí chơn,
Vẹn tròn trung hiếu nghĩa nhơn hiền lành.
Chánh tâm tu kỷ tập tành,
Tề-gia, trị-quốc, đời lành an-bang.
Nên người quân-tử hoàn toàn,
Thanh liêm hạnh đức mở mang giúp đời.
Trên không phạm phép Phật, Trời,
Với tâm khỏi lỗi, với đời gọi tu.
Kết thành đoàn thể dài lâu,
Liền vây liền cánh giúp nhau trọn niềm.
Kìa là sông cá rừng chim,
Có đoàn có thể, nổi chìm có nhau.
Nương theo lớn trước nhỏ sau,
Chim bay em thấp anh cao một chiều.
Biết điều trìu-mến thương yêu,
Giữ gìn quyền lợi làm điều ích chung.
Mày râu báo quốc tận trung,
Vẹn câu hiếu đạo lao lung một lòng.
Nghĩa nhân giữ kỹ trọn xong,
Vì nhau chung chịu mới mong ưu thời.
Đạo còn nương dựa với đời,
Dùng hình thức để cho người tầm tu.
Tâm-Truyền thứ lớp công phu,
Công-Truyền trật tự chư nhu hoàn toàn.
Đạo mà thể một con đàng,
Thì chưa phải Đạo minh quang Phật, Trời.
Đạo vô hình ảnh trong đời,
Đạo không tâm tiếng người người tuân theo.
Cội nguồn biến hóa ẩn bày,
Có tên tuổi đó là ngày hóa sanh.
Người tu đến bực chí thành,
Làm cho Thiên-lý lưu hành bốn phương.
Nhơn-dục tịnh tận thuần dương,
Mâu-ni then máy mở đường siêu sanh.
Thi:
Sanh ra rồi chết, chết đi đâu?
Xác thịt rã tan chẵng mấy lâu,
Linh tánh tinh anh trên cõi thượng,
Sao không mượn Đạo luyện tâm mầu.
Mầu vi đào tạo vóc kim thân,
Luyện đặng kết thành nhị xác thân,
Bát-Bửu Kim-Cang nền Thánh-Đức,
Phiêu lưu định trí xuất Chơn-Thần.
Chơn-Thần xuất khỏi xác phàm phu,
Nương gió bay lên cảnh tuyệt mù,
Nhẹ gót phiêu lưu trong Võ-Trụ,
Mặc tình an hưởng mặc châu du.
Du lịch khắp cùng cõi thế gian,
Xem qua tình trạng động lòng than,
Nhơn sanh mắc phải trong vòng khổ,
Thấy vậy mà Thầy đổ lụy chan.
Chan chứa lòng lo cứu thế thời,
Tang thương biến cải các con ơi!
Họa chung thế-giới đồng tiêu diệt,
Lánh khỏi nhờ chưng biết ĐẠO-TRỜI.
Trời, Phật từ bi nhỏ phước lành,
Chở che tai họa độ nhơn sanh,
Nhủ khuyên mỏi miệng đời toan dữ,
Giận bấy đoàn con chẳng thiện hành.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
1 tháng 9 - Bính-Tý (1936)
TÔN CHỈ CỦA CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO
Thi:
NAM bang gặp đặng Đạo-Trời gieo,
PHƯƠNG pháp thoát ra chốn hiểm nghèo,
GIÁO dục người đời nên Thánh Đức,
CHỦ trương lý chánh biết tìm theo.
Thầy mừng các con. Thầy lấy làm vui với các con.
Thi:
ĐẠI-THỪA Thánh-Đạo lộ huyền cơ,
Ngọc báu trương ra vẹt ám mờ,
Lấp biển khổ bằng như mặt đất,
Sóng yên dưới nước tợ trên bờ.
Trường Thiên
Đạo-Trời ngày một hoằng khai,
Cái danh hiệu của CAO-ĐÀI sáng trưng.
Ba nền Tôn-Giáo trùng hưng,
Nhơn sanh thấy đặng vui mừng ngày kia.
Khó khăn con cũng chớ lìa,
Thì Thầy điểm hóa trao chìa khóa cho.
Đứa nào có chí siêng lo,
Tầm đường chánh-giáo thoát lò Thiên-quân.
* * *
Đây Thầy luận về chữ: "HỮU và VÔ".
Thi:
Hễ tầm chỗ Co?ỏ nơi Không,
Đứa ấy còn đương nhốt tại lồng,
Đạo cả vô-vi chơn chánh lý,
Tu tâm luyện tánh ở bề trong.
Đạo Thầy là vô hình, vô dạng. Nhưng cái lý vô-vi ấy cần phải nương với hữu hình (hồn hiệp xác), chẳng nên lấy cái CÓ mà bỏ cái KHÔNG, mà cũng chẳng nên gìn cái KHÔNG mà quên cái CÓ. Vậy thì "Co馣34;, "Không" phải đi cặp nhau. Như hột lúa, các con dùng đặng mà nuôi lấy thân thể ấm no là dùng cái hột gạo ở trong, chớ cái vỏ (trấu) ở ngoài các con dùng sao đặng. Nhưng các con muốn cho có hột gạo phải dùng luôn cái vỏ lúa đặng gieo xuống thì nó mới mọc lên, chớ nếu các con thấy không cần cái vỏ, rồi các con lột ra trụi luỗi, còn hột gạo trơ trơ thì các con gieo sao cho nó nứt mọng đặng, các con!
Vậy các con tu hành cũng y như lẽ đó.
Muốn dưỡng linh-hồn phải cần xác thịt này mà luyện Đạo mới thành. Nhưng một điều là các con chẳng trọng sự hữu hình. Hễ con nào còn trọng hình thức bề ngoài thì con đó chưa rõ Đạo.
Đạo là cái pháp tâm linh diệu, có một không hai. Dầu cho nước nào, dân tộc nào cũng noi cái lý độc nhứt vô nhị đó mà thôi.
Đạo Thầy đương thời kỳ phôi khai, hoằng hóa, phổ độ chúng-sanh, bất luận là người nào, nước nào, tu theo cũng đặng. Chớ các con dùng cái hình thức bề ngoài mà truyền bá cho sở hạp với phong tục của các con sao đặng? Thí như nước không biết cúng kiếng thờ phượng, các con ép buộc người ta phải thờ phượng cúng kiếng như các con thì các con mới chịu truyền Đạo cho thì trái hẳn với phong tục nước người. Nó không khứng chịu, mà nó không khứng chịu thì các con không khứng chỉ truyền, ắt cả chúng-sanh phải chịu luân-hồi trả quả sao các con? Khờ lắm ôi! Vã lại sự kinh kệ con dùng tiếng Nam, rồi các con buộc các nước khác phải đọc giống in như tiếng Nam của con, làm như con, con mới chịu chỉ truyền sao các con?
Đạo Thầy không phải vậy đâu.
Các con còn nghịch nhau cân đai, áo mảo. Cái cân đai, áo mảo đó nó có thể đem các con đến địa vị Phật, Tiên chăng? Hay là nó dẫn dắt vào nơi tội lỗi?
Các con có tranh nhau về đạo-đức chớ đừng tranh nhau về hình thức bề ngoài thì mối Đạo mới hoằng khai khắp chốn.
Thầy có một điều khuyên các con cần phải giữ lấy hạnh đức người tu. Các con đáng sợ là sợ muôn mắt trông vào, nhiều tay chỉ trỏ. Người ta thấy cái giáo-lý rất nghiêm trang thì ai lại không khẩn cầu truyền Đạo. Nhưng Đạo Thầy "im ẩn sâu xa, mầu nhiệm lắm", các con khó mà theo kịp. Các con cứ vững tâm, tu luyện hoài, đừng thái quá, đừng bất cập. Xưa kia có người chê mặt Trời sao đi chậm chạp, không bằng con kiến bò, chừng nào tới chỗ. Người ấy tưởng mình đi lẹ, chóng xắp trăm phần, nên ra đi thi với mặt Trời. Nhưng mặt Trời đã chen lặn mà người ấy chưa tới đâu hết, lại bị trong mình mõi mệt, khát nước, đói cơm mà đành bỏ mình nơi rừng vắng. Cũng như người nước Tống cấy mạ thấy lâu lên, làm tài khôn ra nhớm gốc lên hết cho cao thì lúa kia đều chết ráo, các con khá rõ à!
Tu hành cũng như các con gieo hột giống xuống thì chắc nó mọc lên, mà mọc lên thì các con siêng năng bón phân, tưới nước hằng ngày, thủng thẳng nó lớn một ít ít. Lâu ngày nó đơm hoa, trổ trái. Sức lớn ấy do "Lý Thiên-Nhiên", chớ các con làm sao nó lớn đặng.
Các con nghe:
Trường Thiên:
Tu hành giữ mực chừng thôi,
Đừng bày vẽ lắm rồi bôi lem đầy (cười...cười...).
Các con biết đặng đạo Thầy,
Đạo Thầy không chịu cho ai biết mình.
Ở ăn như thể thường tình,
Lo tu luyện Đạo sửa mình tinh ba.
Tu không biểu mặc đồ dà,
Cạo râu thí phát bỏ nhà lìa con.
Ông bà cha mẹ đương còn,
Phải lo báo đáp cho tròn hiếu trung.
Vợ chồng trọn nghĩa thỉ chung,
Giữ như sen mọc dưới bùn không dơ.
Làm như dốt nát dại khờ,
Đừng cho kẻ thế ngờ rằng mình tu!
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Mùng 2 tháng 9, Bính-Tý 1936
QUÂN-TỬ VÀ TIỂU-NHƠN
Thi:
NGỌC bửu chiêu chương tứ hải minh,
HOÀNG Thiên ái chúng hiệp chư linh,
THƯỢNG thừa điểm Đạo thông công-đức,
ĐẾ vị hồi nguyên đáo Ngọc-Kinh.
Thầy mừng các con.
Các con ôi! sông mê cuồn cuộn chảy, bể khổ đập đùng xao; các con sanh sống trong cõi trần hoàn, dồn dập biết mấy nổi thương tâm đau khổ. Các con cũng vì mang xác thịt của Hậu-Thiên cấu tạo, mà lửa dục bừng bừng, lòng mê mịch mịch, nên luống chịu cho bảy tình sai khiến giục xô, đến đỗi lạc sai lầm lỗi, kể chẳng hay cùng.
Nhưng trước kia các nền Chơn-Giáo đã thất chánh truyền thì dẫu các con có mê-muội, phạm nhiều tội quá, cũng còn mạnh miệng đổ thừa. Chớ đến ngày nay Thầy đã nhọc đem mối Đạo nhiệm mầu mà phô trương hoằng hóa giữa nhơn gian, cốt để vẹt màn hắc ám, hầu độ rỗi các con cho thoát chốn mê đồ khổ cảnh, mà nếu các con lại không sớm tỉnh ngộ quày đầu, để cứ mãi say sưa mài miệt trong vòng tục lụy trần ai thì há còn chối đặng rằng Thầy không dạy nữa sao? Các con nên liệu lấy! Đến ngày phán đoán đại đồng, Thầy dẫu yêu thương cách mấy, cũng không bỏ được phép công.
Trong đời nhơn loại thường chia ra hai hạng: Quân-tử với Tiểu-nhơn. Vậy các con nên theo gương Quân-tử mà chẳng nên học thói tiểu nhơn.
Quân-tử là gì? Tiểu-nhơn là gì?
Quân-tử ấy là một hạng người đức tài xuất chúng, phẩm hạnh hơn người, nhân cách hoàn toàn, tánh tình cao thượng. Người Quân tử thì bao giờ cũng ung dung thư thái, ưa làm sự phải điều hay, thuận Thiên-lý lưu hành, đem chơn đạo mà khuyên đời tùng lương cải ác. Tấm lòng bao giờ cũng quảng đại, vô-vi, thanh tịnh, không phóng túng, bôn chôn mà để cho lòng dục khiến sai, uốn bẻ, đến phải bước lầm vào nẻo quấy. Mọi việc đều xét suy đáo để, tính trước lo xa, thương người ích chúng, ham nghĩa, ưa nhân, chuộng trung, mến chánh. Bao giờ cũng vẫn tùy thời quyền biến mà giữ cho được hai chữ "trung dung", chớ không thái quá, không bất cập. Dầu gặp cảnh ngộ nào thì tâm chí cũng cứ an vui, không để thất tình loạn động, vì người Quân-tử là: "Thực vô cầu bảo, cư vô cầu an" kia mà!
Cái đức người Quân-tử thường như nước vậy. Nghĩa là châu lưu khắp chảy tứ phương, gặp tròn, gặp méo, gặp dài, gặp vuông, nước cũng chìu theo được hết. Lại nước cứ từ cao chảy xuôi xuống thấp nên người quân tử luống chịu hạ mình cho vừa lòng tất cả nhơn sanh. Nhưng nước tuy cứ tìm chỗ thấp, cứ chịu theo khuôn, cứ mềm với chúng, mà đến chừng ai muốn cho nó tiêu mòn sứt mẻ thì chẳng làm sao hề hấn đến được lấy chút mảy may gì nó bao giờ. Người Quân-tử theo đời mà chẳng nhiễm đời, chìu người mà chẳng bợ người, tùy tục mà không đắm tục, cứ giữ tánh tình thanh bạch, tâm chí cao siêu, dầu ai dầm cũng chẳng phai, ai dũa cũng chẳng mòn, nên bả lợi danh, mồi chung đỉnh có bao giờ trêu nhử được đâu.
Còn đứa tiểu-nhơn lại bỏ nghĩa theo lợi, lấy vạy cầu danh, tâm tà tánh độc, nết kiêu chí hèn. Nói tắt một lời là mỗi mỗi thảy đều trái hẳn với người Quân-tử như trắng với đen, như Trời với vực.
Tuy nhiên, người Quân-tử càng trốn cái danh mà danh càng rạng tỏ, càng chìu với thế mà thế vẫn tôn sùng. Còn đứa tiểu-nhơn lại càng chuộng cái danh mà danh càng nhơ nhớp, càng kiêu với thế mà thế vẫn thị khinh.
Ấy thế mà cớ bởi sao hạnh quân tử lại ít người làm, còn thói tiểu nhơn thì nhiều kẻ học. Ôi! Thiệt rất đáng buồn cho nhơn loại biết bao!
Trường Thiên
Lấy gì đánh thức nhơn sanh,
Đời toan tìm dữ, bỏ lành thì thôi.
Thấy càng thêm chán lắm ôi!
Nhơn tình như thế đứng ngồi không an.
Thói đời nhiều sự dị đoan,
Làm mê hoặc chúng mơ màng viễn vông.
Họa chung khôn thể lường đong,
Thấy vầy Thầy đổ lụy ròng vì con.
Để cho tâm chí tiêu mòn,
Tinh thần tiền tụy sắt son mấy người.
Làm chi để tiếng trò cười,
Thấy đời hổ thẹn thói đời hủ thay.
Văn minh tấn bước đua tài,
Mở mang trí óc hoát khai tinh thần.
Làm sao cho rạng mười ân,
Làm cho ích nước lợi dân thì làm!
Đỉnh chung lợi lộc đừng ham,
Trau giồi trí hóa tánh phàm dứt đi.
Xưa nay hễ vị thì vì,
Tùy theo việc phải đừng tùy bất công.
Chung nhau Nam, Bắc, Tây, Đông,
Kết giây đoàn thể đại đồng trị an.
Làm cho Đạo-đức mở mang,
Làm cho cơ thể vững vàng bền lâu.
Siêng cần dầu phải dãi dầu,
Phấn tâm lập chí mới hầu nên thân.
Người mà trì trệ tinh thần,
Biếng làm Đạo-đức, không cần nghĩa nhơn.
Trong đời có đặng điều hơn,
Là nhờ lập chí gội ơn phước lành.
Nhược không lập chí tu hành,
Già đời mãn kiếp không thành món chi.
Nhơn gian bất hoặc là gì,
Biết thân lập chí ắt thì thành công.
Người tu lập chí sửa lòng,
Nhược bằng biếng nhác thì không ích gì.
Muốn trừ khử một món chi,
Phải bền lập chí ắt thì việc xong.
Những lời Thầy đã ước mong,
Mong con lập chí thức-thông chơn-truyền.
Noi gương của bực Thánh Hiền,
Sửa mình đến cảnh Thần Tiên hưởng nhàn.
Chán đời tìm chốn tịnh an,
Học theo quân tử, lánh đàng tiểu nhơn.
Khó khăn chí vẫn đâu sờn,
Hữu duyên nghe lọt tiếng đờn vô-vi.
Làm người cần phải nghĩ suy,
Hai đường qua lại chọn đi đường nào.
Khổ tâm bước thấp bước cao,
Tầm sư học đạo công lao chớ phiền.
Xưa kia NGHIÊU-ĐẾ cầu Hiền,
Bao phen khó nhọc mà truyền kế ngôi.
TẦM-DO đã suốt mồ hôi,
HỨA-DO lòng vẫn chán rồi lợi danh.
Thị đời là vũng hôi tanh,
Nên chi lánh trược tầm thanh ẩn nhàn.
Ngôi cao vương đế không màng,
Quét tiêu bợn tục giàu sang há cầu.
Nhưng còn SÀO-PHỦ cao sâu,
Nghe qua sợ nhiểm lòng trâu nữa kề.
Đời đà bắt chán bắt chê,
Đáng khi đáng thị mết mê nỗi gì?
Non cao khiển hứng phú thi,
Xa nghe tiếng tục rầm rì bên tai.
Nhẫn kiên HÀN-TÍN đại tài,
Lòn trôn giữa chợ chẳng nài xấu xa.
NHAN-HỒI tháng lại ngày qua,
Ẩn thân nơi chốn rừng già luyện tu.
Nghêu ngao trong cảnh Trời Thu,
Đai cơm bầu nước vân du ta bà.
Tâm hồn thích hợp trung hòa,
Mấy năm lậu hạng mới là trượng phu.
An nhàn tâm trí thanh u,
Chán đời giã dối hèn ngu bạo tàn!
TỬ-NHA ngồi chốn thạch bàn,
Thả câu sông Vị ẩn tàn Thiên-Cơ.
Lúc nguy phải chịu dại khờ,
Bao lần sôi nổi đợi chờ hội thi.
Làm ăn chẳng đặng món gì,
Thành ra hư hõng mãi đi bao lần.
Có thân thiệt khổ cho thân,
Sớm khuya buôn tảo bán tần đủ đâu.
Đói no vui với Đạo mầu,
Suốt đời thong thả mà cầu trường sanh.
Bảy năm Dủ-Lý nhọc nhằn,
Hà-Đồ Bát-Quái dịch thành Lạc-Thơ.
Cho đời rõ máy huyền cơ,
Tiên-thiên chia sắp cõi bờ hậu-thiên.
Đời sau dễ kiếm chơn truyền,
VĂN-VƯƠNG thọ ngục chẳng phiền trách ai.
Trọn niềm trung hiếu chẳng phai,
Mặc người bội nghĩa, mặc ai bạc tình.
Lỗi mình, mình trước sửa mình,
Lỗi người phú có Thần minh chứng lòng.
Chi bằng nhẫn nhịn thì xong,
Mặc ai thêu dệt cua còng thì thêu.
Kìa như TỬ-LỘ thân nghèo,
Trọn niềm hiếu Đạo, vẹn điều thỉ chung.
Đáp đền hiếu thảo đến cùng,
Dẫu cho nát thịt cũng trung trọn tình.
LỘ là một bực thông minh,
Ai mà chỉ lỗi sửa mình mừng vui.
TRƯƠNG-LƯƠNG nếm Đạo biết mùi,
Níu nương cửa Phật an vui tinh thần.
Công khanh tể tướng không cần,
Biết lo lánh trước cái thân sau này!
Học cho suốt lý đủ đầy,
Thí như HẠNG-THÁC làm thầy TRỌNG-NI.
Bạc riêng bạc, chì riêng chì,
Vàng thau lẫn lộn rồi nguy lắm mà.
Chánh riêng chánh, tà riêng tà,
Người lành kẻ dữ khác xa hai đường.
Hữu xạ thì tự-nhiên hương,
Cần chi mà phải đem trương với đời!
Bánh xe chuyển kiếp luân-hồi,
Cứ quay mãi mãi cứ nhồi luôn luôn.
Thói đời hãm chặt vào khuôn,
Đương còn cá chậu chim chuồng khổ lao.
Kẻ chịu thấp, người ưa cao,
Trèo lên trợt xuống lộn nhào leo lên.
Miễn sao tâm chí vững bền,
Đài cao trăm trượng biết lên kiếm tìm.
Sắt cục mài trở nên kim,
Dày công mới đặng đừng hiềm khó khăn.
Lỗi rồi mà biết ăn năn,
Hóa Mê thành Giác mới rằng tài ba.
Hai đường là Phật với Ma,
Đọa siêu chỉ tại chánh tà, do tâm!
Thi:
Tà tâm xúi dục sự ngu hèn,
Ưa thích lợi quyền chuộng tiếng khen,
Ích kỷ tổn nhơn tham dục mãi,
Rửa lòng trong sạch tợ hoa sen.
* * *
Sen cúc mùa Thu ngát phấn hương,
Giữ gìn nên bứng để trong trường,
Đạo cao nhiều lúc ma cao phá,
Phòng những dục tâm dắt lộn đường.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Mồng 4 tháng 9, Bính-Tý (1936)
KIÊN NHẪN - HẠNH NGƯỜI TU
Thi:
NGỌC tỵ ngũ hành lộ Chiếu-Minh,
HOÀNG Thiên ban bố đức thông-minh,
THƯỢNG tầng khí chất thanh-thanh khứu,
ĐẾ lịnh ra oai chuyển Đạo-Huỳnh.
Thầy mừng các con. Các con đại tịnh, nghe Thầy giải sơ chữ: "KIÊN-NHẪN".
Thi:
Kiên Nhẫn gầy nên Thánh-Đức tâm,
Nhẫn kiên Đạo-đức nghĩ suy ngầm,
Lủy thành chống vững đường tên đạn,
Nhẫn được lâu ngày hỏa dục lâm.
Thi Bài:
Huấn luyện người trở nên Đạo-đức,
Thì thân Thầy khổ cực biết bao,
Chỉ phương lập chí thanh cao,
Cho thông suốt lý tạo đào tâm chơn.
Lập một nước dễ hơn truyền giáo,
Truyền dạy người đắc Đạo khó thay!
Biết bao kềm sửa đêm ngày,
Làm nên Tiên, Phật rất dày công phu.
Đây là hạnh người tu luyện đạo,
Đoạn dứt lòng gian xảo kiêu căng,
Miệng không hay nói chuyện xằng,
Ngồi lê đôi mách cằn nhằn người ta.
Phải nắm giữ Hiệp-Hòa Kiên-Nhẫn,
Tịnh tâm lo bổn phận làm người,
Lỗi lầm thiên hạ chớ buơi,
Xấu xa mê-muội đừng cười chê khen.
Lần hồi tập cho quen tánh cách,
Giữ tấc lòng trong sạch hoàn toàn,
Mặc tình ai thói dọc ngang,
Những điều quấy quá chớ mang vào mình.
Lo đóng cửa luyện hình vóc Phật,
Đối mọi người chơn thật mến yêu,
Quanh co thuyền phải theo chìu,
Người trong một Đạo dắt dìu giúp nhau.
Đừng cậy thế quyền cao chức trọng,
Đừng ỷ giàu kiệu lộng nghinh ngang,
Con dầu một bực Thánh-Hoàng,
Biết tu coi tợ như hàng con dân.
Người hiền đức không cần danh vọng,
Làm thì ưa công cọng hiệp hòa,
Kính người quên phức đến ta,
Tự-nhiên thanh tịnh giọng tà bất sanh.
Theo Thiên-lý lưu hành hạp Đạo,
Gom ngũ quan rèn tạo kim thân,
Tuy là lẫn lộn hồng trần,
Nhưng lòng Đạo-đức không cần lợi danh.
Cây đại thọ đơm cành nãy tược,
Tốt tươi nhờ tưới nước bón phân,
Tu cho mau phát tinh thần,
Thì lo luyện tập cho cần ngày đêm.
Biết Đạo chớ nói thêm nói bớt,
Tội lỗi người đở vớt chở che,
Nhiều cây mới kết nên bè,
Anh em chung trí đồng hè nhau tu.
Phá cho đặng khám tù thế tục,
Diệt cho tiêu lòng dục tánh phàm,
Những điều ưa chuộng mến ham,
Con nên bỏ phức túi tham cho rồi.
Thoát thân khỏi luân-hồi nghiệp báo,
Chỉ tận tâm với Đạo cứu cho,
Trần ai nóng tựa lửa lò,
Hơi bay hực hực đen mò khói un.
Hít vào thì ngây cuồng mê-muội,
Mất trí khôn lầm lũi đường tà,
Khói un độc địa thay là,
Thầy đem chén thuốc chữa mà các con.
Nên hạ mình chìu lòn chúng bạn,
Đức hạnh tròn chói sáng mọi nơi,
Khuyên con con biết nghe lời,
Dạy con con biết tùy thời chấp trung.
Lo lập chí vẫy vùng cơ hội,
Cứu vớt người lặn lội bến mê,
Tình đời cần phải chán chê,
Đừng mang những gánh nặng nề ai trao.
Lấp biển khổ, làm sao lấp đặng?
Xô thành sầu, khó hẳn mà xô!
Người người lâm bịnh ngây ngô,
Chúng ta hiệp lại lấp xô khó gì!
Biết Đạo-đức chịu lỳ với Đạo,
Để quỉ ma nó khảo mới cao,
Phơi gan trãi mật anh hào,
Đại hùng, đại lực mới vào cảnh Tiên.
Diệt bản ngã bỏ quyền dụng lý,
Khử tư tâm hiệp ý Đại-Đồng,
Làm cho thế giới lưu thông,
Dân quyền xướng dậy đời hồng âu ca.
Tánh đức của người ta cao thượng,
Lo gieo truyền tư tưởng thanh cao,
Giúp cho nhơn-loại dồi dào,
Kết dây đoàn-thể đồng-bào quốc-dân.
Không chịu lãnh những phần khen ngợi,
Không chịu làm tư lợi tổn nhơn,
Không oán để tiếng khinh lờn,
Ham làm Đạo-đức nghĩa nhơn gọi là.
Người hiền để người ta biết đó,
Thì cũng chưa thiệt rõ người hiền,
Người hiền an tịnh nhẫn kiên,
Lo làm âm đức mới thiền tâm linh.
Còn nhớ đến rằng mình hay giỏi,
Thì ai đâu còn gọi người hiền!
Người hiền trầm tỉnh ổn yên,
Thủy triều vận tải căn nguyên đức tài.
Người hiền chẳng khoe khoang tự đắc,
Lo cho người tai mắt ích chung,
Gìn tâm chẳng để buông lung,
Cúi lòn nhẫn nhịn giây dùng dứt coi!
Thi:
Coi thử xưa nay bậc Thánh Hiền,
An vui nhờ bởi Nhẫn Hòa Kiên,
Gương lành quí hóa TRƯƠNG-CÔNG-NGHỆ,
Súc vật thương nhau quá ngọc tiền.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Mồng 3 tháng 8 - Bính-Tý (1936)
HÒA HIỆP
Thầy các con. Thầy mừng các con. Các con đại tịnh, nghe Thầy dạy:
Thi:
NGỌC ẩn non cao tự bấy giờ,
HOÀNG thành Đạo-đức chuyển huyền-cơ,
THƯỢNG căn tầm thấu nguồn cao cả,
ĐẾ nắm tâm kinh mãi đợi chờ.
Thầy lấy làm may mắn vì nay có cơ hội mà hoằng hóa chơn truyền để cứu độ nguyên nhơn phục hồi cựu vị. Các con rất là hạnh phúc lớn lao mới đắc ngộ tâm kinh vô tự. Thầy chỉ truyền cho các con tu tánh luyện mạng.
Thi:
Linh-hồn ngũ trược chận dằn lên,
Lục dục phá hư chẳng vững bền,
Cửa Đạo đã gài tâm tánh muội,
Mê đời vật chất bởi cho nên!
Đây Thầy giải về chương "HÒA-HIỆP".
Thi:
Hòa-Hiệp trong đời quí báu thay,
Hòa tâm thân ái mới lâu dài,
Hiệp quần đoàn thể như thành lũy,
Hòa hiệp chống đương cuộc hậu lai.
Trường Thiên:
Âm dương hòa-hiệp hóa sanh,
Dựng nền Đạo-đức lập thành Càn-Khôn.
Bế tử lộ, khai sanh môn,
Điều hòa mới thể bảo tồn vạn linh.
Hòa là một món báu linh,
Là chìa khóa mở Ngọc-Kinh bước vào.
Trung Hòa không thấp không cao,
Không chinh, không lịch, không sao tiêu mòn.
Còn hòa Đạo-đức mới còn,
Còn hòa mới có các con bây giờ.
Hòa là phép nhiệm huyền cơ,
Hiệp hòa cốt yếu ban sơ loài người.
Phong hòa võ thuận tốt tươi,
Thuận hòa thời tiết hiện đời Phật, Tiên.
Hiệp hòa hình thể thiêng-liêng,
Xác hồn hiệp nhứt Đạo huyền phát minh.
Hiệp đoàn thể mới hòa bình,
Hòa bình thế giới Đạo-Huỳnh lưu thông.
Hòa cho rõ mặt đại đồng,
Hiệp-hòa huynh đệ mặn nồng nghĩa nhơn.
Hòa là chí chánh chí chơn,
Hiệp lòng bác ái độ nhơn thoát nàn.
Đạo Trời khắp cả dân gian,
Lấy câu hòa hiệp làm thang vượt trần.
Hiệp-hòa tiên bảo kỳ thân,
Hiệp tâm quân tử hiệp phần thiện lương.
Có hòa-hiệp mới biết thương,
Thương nhau mới thể tầm phương giúp đời.
Lược sơ hòa-hiệp Đạo-Trời,
Hiệp-hòa cải thế tạo thời hóa sanh.
Người tu khử trược lưu thanh,
Dụng công hòa hiệp mới thành Phật, Tiên.
Ngũ hành hiệp nhứt thăng thiên,
Điều hòa thần-khí hống-diên giao hòa.
Định tâm chế luyện tinh ba,
Biết phương sớt lại sang qua thì thành.
Thông tường nguồn lạch cội nhành,
Là phương hòa hiệp mới rành trước sau.
Chữ hòa quí báu biết bao,
Bao trùm Võ-Trụ thấp cao cũng hòa.
Đất trời do đó mà ra,
Phật, Tiên do đó mới là siêu thăng.
Những người tiền kiếp hữu căn,
Nghe câu hòa hiệp sánh bằng ngọc châu.
Chữ hòa há dễ làm đâu!
Làm cho đặng ắt thoát bầu tử sanh.
Ở trong một điệu tu hành,
Một Hòa hai Nhẫn chớ sanh lòng tà.
Người tu không biết nhẫn hòa,
Để cho lửa dục đốt mà cháy tiêu.
Hòa ai cũng mến cũng yêu,
Đáng khen đáng tặng biết chìu lòng nhau.
Hạ mình xuống thấp mà cao,
Trèo cao sẽ té lộn nhào chẳng không!
Chữ hòa phương pháp phổ thông,
Chữ hòa-hiệp đó rất công mọi người.
Nhẫn hòa giữa đám mười mươi,
Tấm lòng an tịnh người người kỉnh thay.
Hiệp hòa giữ đặng là hay,
Bỏ đi là dở bất tài bất minh!
Chữ hòa giồi luyện đẹp xinh,
Hiệp tâm chi sĩ sửa mình thanh cao.
Thi:
Cao thượng làm nên lẽ Hiệp-Hòa,
Hiệp-hòa mới có các con ra,
Tu thành Tiên, Phật do Hòa-Hiệp,
Hiệp nhứt hư không ở với Già.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Mồng 2 tháng 9, Bính-Tý (1936)
ĐOÀN THỂ
Thi:
CAO ngôi hoằng hóa pháp mầu linh,
ĐÀI Đạo vô-vi đã phát minh,
TIÊN Phật ra tay dìu dắt lối,
TRƯỞNG thành chơn lý khải Tâm-Kinh.
Thầy mừng các con nam nữ lưỡng phái. Thầy lấy làm vui vì cơ quan vận chuyển mà phổ tế quần sanh cải ác tùng lương, tu phong hóa, dựng cang-thường, chỉnh đốn cho hoàn toàn trở nên đời chí thiện chí mỹ.
Thi:
Đào luyện đạo-tâm tấn thiện thành,
Định hồn nhơn loại đắc thời hanh,
Chỉnh tô phong tục đời an trị,
Không khí điều-hòa hấp thụ sanh.
Thi:
Hiệp-hòa nhơn loại khắp xa gần,
Quân-tử liên hòa tỉnh quốc-dân,
Đoàn hội tương thân nhơn tự trị,
Thể tâm ái hữu phát tinh thần.
Thi Bài:
Tình đồng Đạo liên hòa đoàn thể,
Nghĩa hiệp quần huynh đệ tương thân,
Dầu xa cũng hóa ra gần,
Chung tâm đào luyện tinh thần quang minh.
Nòi giống ta giữ gìn nhau mãi,
Khôn chỉ bày, kẻ dại nương theo,
Chia gồng sang gánh hiểm nghèo,
Thương yêu khắn-khít lựa vèo độ nhơn.
Có một mặt còn hơn mười gói,
Giụm mười cây mới gọi rằng non,
Nghĩa tình nhiệt huyết sắc son,
Đồng sanh đồng tử mất còn có nhau.
Hiệp tài đức dồi dào tánh thiện,
Noi Đạo Trời tân tiến đường tu,
Dầu cho những kẻ đui mù,
Cũng thương mến cả sớt bù chia lo.
Chung một bọc trong lò sanh hóa,
Anh em gìn mối cả bền lâu,
Điểm tô phong hóa đạo mầu,
Mở mang thế sự rõ câu chơn truyền.
Lẽ loi mãi chịu phiền phức mãi,
Trước sau lo kết dãi đồng tâm,
Nương đò bước thẳng cao thâm,
Chỉ phương thoát hóa lỗi lầm tránh xa.
Chung vui cuộc điều hòa nhơn loại,
Tùy thế thời hoán cựu, nghinh tân,
Làm cho bình phục quốc dân,
Làm cho bốn biển tương thân, tương hòa.
Làm cho rõ gần xa hiệp mặt,
Làm cho thành Nam Bắc đừng xa,
Làm cho chung hiệp một nhà,
Làm cho thế-giới âu ca thái bình.
Lược sơ qua tình hình nhơn loại,
Xa Đạo Trời tánh lại bạo tàn,
Mối dây thân ái dứt ngang,
Nghĩa tình máu mủ nhắc càng thêm đau.
Vì danh lợi hại nhau mọi lẽ,
Vì quyền mà tách tẽ nhiều chi,
Vì lòng tham chạ sân si,
Vì ăn, vì ở, chả vì nghĩa nhơn.
Vì giành-giựt tranh hơn thua mãi,
Mà nghĩa tình mắc phải lao lung,
Anh em chẳng đặng trùng phùng,
Mỗi người đều sẵn lo dùng túi tham.
Vạch bản ngã tâm phàm vị kỷ,
Nào chút lòng lưu ý thương yêu,
Quá giang sớm phải bắt kiều,
Giống nòi ta phải thuận chìu bắt tay.
Tình đồng loại một mầu thân thiện,
Đừng coi nhau như miếng mồi ngon,
Đồng bào dứt nghĩa sắt son,
Bởi chưng chia rẽ tiêu mòn ai ôi!
Đồng chung chịu tô bồi nền cũ,
Dắt dìu nhau thoát khỏi hồng trần,
Làm cho ích quốc lợi dân,
Anh hùng để hết tinh thần lo chung.
Thi:
Chung cuộc điều-hòa chánh-giáo hưng,
Muôn dân sẽ thấy sự vui mừng,
Trào lưu xiêu đổ lo bồi đắp,
Xướng dậy liên đoàn lý Đạo nưng.
* * *
Nưng cao giá trị của người tu,
Tu luyện tánh tâm vẹt ám mù,
Mù mịch khám trần lo nhảy thoát,
Thoát vòng danh lợi mặc ngao du.
* * *
Du nhàn khiển hứng rượu cờ Tiên,
Tiên dược uống vô dứt não phiền,
Phiền trách giận đời không thức lý,
Lý nào quở phạt đứa khùng điên!
* * *
Điên đảo Năm Châu nạn chập chồng,
Cuộc đời có đó sắp ngày không,
Không ai biết trước lo tu luyện,
Luyện Đạo mới mong lánh não nồng.
* * *
Nồng nàn thân ái nghĩa tri âm,
Chén rượu bài thơ khiển hứng ngâm,
Ngâm vịnh thỏa lòng vui Đạo-đức,
Đức thuần do bởi đắc minh tâm.
* * *
Tâm KHÔNG khó nhiểm bụi trần ai,
Ai biết thì lo sớm giũa mài,
Mài miệt trần gian mê-muội trí,
Trí cuồng mấy thuở gặp Như-Lai!
* * *
Lai vãng nhiều lần Đạo phổ thông,
Thông minh mấy kẻ biết cho lòng,
Lòng toan thói quấy không tu luyện,
Luyện tập cơ quan hóa Đại Đồng.
Phú Lối Văn:
Cuộc trần thế, ôi! là đời người mê-muội,
Nẻo chông gai tình tội mà sao cứ lầm lũi a vào?
Nhủ khuyên đời thì đã biết bao,
Tánh phàm tục, ôi! nói sao cho hết,
Tình tệ thiệt thấy đời mê mệt, đã đành cam chịu chết trong biển trầm luân!
Phú Thi
Nguơn hội chót lập thành cơ Đạo-đức,
Để độ đời thoát vực biển sông mê,
Cuộc tang-thương nay cũng gần kề,
Đường chánh đại chưa hề ai bước đến.
Trôi nổi mãi không tầm vào bờ bến,
Sóng gió nhồi đành chịu lấp chôn,
Trong bốn tường hãm chặt trí tâm hồn,
Nào còn tính khôn khôn dại dại.
Sao là phải, sao là chẳng phải?
Gẫm cuộc đời hiện tại gớm ghê mà...!
Cái nhơn tình thấy vậy xót xa,
Mang chứng bịnh mê tà ngơ ngẩn trí.
Đời toan những mưu thần chước quỉ,
Giết lẫn nhau ích kỷ tổn nhơn,
Những hạng người bội nghĩa bạc ơn,
Lòng lang độc thấy căm hờn sôi máu đỏ.
Nhìn thế sự bắt châu mày nhăn nhó,
Nhắm mắt không muốn ngó đến nhơn tình,
Ôi! là người chịu nhục chê vinh,
Vinh nhục gẫm sự tình chua chát lắm.
Bịnh trầm kha lâu ngày đã lậm,
Thuốc tiên hoàn gội tẩm cũng trơ trơ,
Thấy cuộc đời mà muốn bỏ lơ,
Nhưng không lẽ để vất vơ cho chủng loại.
Ta cũng ước để lòng mong mỏi,
Hội sau này cứu khổ cuộc chi ly!
Lấy thuốc thần chữa bịnh tham si,
Trừ nọc độc ắc thì thân thể mạnh.
Ban nhập lý chết đà khó tránh,
Nhờ linh đơn Đạo Thánh giải hồn oan,
Muốn cho đời thành cuộc trị an,
Thì phải để nhơn gian tiêu diệt bớt.
Người tội lỗi quả nhồi phải rớt,
Kẻ thiện căn tuy yếu ớt vẫn còn hoài,
Muốn rõ tàng những cuộc tương lai,
Xem hình thể Đạo Cao-Đài tuyên bố đó.
Phương chi tránh bão bùng sóng gió,
Biển ba đào thiệt khó chống đương,
Đoán chắc rằng có cuộc tang thương,
Qua hội ấy rõ tường đời Thượng Cổ.
Thi:
Cổ tích xưa kia chép sử xanh,
Công phu khổ hạnh bực tu hành,
Tầm sư học Đạo bao nhiêu khổ,
Nhưng cũng chìu lòn mới trứ danh.
* * *
Danh hiệu CAO-ĐÀI phái Chiếu-Minh,
Luyện huờn đơn sẽ đắc trường sinh,
Sinh ra chịu những muôn vàn khổ,
Đến chết không an nổi giựt mình.
* * *
Nhắc lại chuyện xưa bực Thánh thông,
TRỌNG-NI học Đạo bái THẦN-ĐỒNG,
HIÊN-VIÊN khó nhọc dày năm tháng,
Mới gặp chơn truyền của Chánh-Tông.
* * *
Tầm Đạo xưa kia rất khó công,
Muôn vàn khổ hạnh quản bao lòng,
Minh-sư đắc thọ mòn tâm trí,
Nay sẵn bên mình mối Chánh-Tông.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Ngày 27 tháng 8 - Bính-Tý (1936)
ĐẠO-ĐỨC
Thi:
NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ vận thần thông,
Điểm Đạo nhơn sanh thoát não nồng,
Mở cuộc Long-Hoa chiêu Thánh-Đức,
Hưng truyền chơn lý phước cao phong.
Thầy đại hỉ, các con tịnh tâm nghe dạy: Thầy giải về ĐẠO-ĐỨC.
Đạo-đức phải đi cặp nhau. Đạo là dương, Đức là âm. Âm dương phải tương cảm, tương ứng, điều hòa mới thành đặng.
Con người phải biết đường Thiên-lý, lo tu hành quày bước trở lại chỗ bổn nguyên, nương pháp Đạo mà luyện tánh tu tâm, dùng đức cả sửa mình nên hạnh tốt.
Người phải có Đạo và người phải làm cho Đạo rộng lớn thêm ra, chớ Đạo không thể làm cho người rộng lớn đặng. (Nhơn năng hoằng Đạo, Đạo bất hoằng nhơn).
Đạo-đức là cái khuôn-mẫu để cho loài người phải nương đó mà sửa mình đặng mở cái trí hóa cho thông minh sáng suốt hoàn toàn tánh cách cho đến chí thiện chí mỹ. Chớ con người mà bỏ xa cái Đạo-đức đi rồi nào khác chi kẻ bị quáng-làng, cặp nhãn quang mờ tối, có biết đường nào mà đi cho khỏi sa hầm sỉa hố.
Thi Bài:
Người không Đạo như hồ không đáy,
Chứa bao nhiêu nó chảy bấy nhiêu,
Người tròn Đạo-đức xuôi chìu,
Như thuyền sẵn nước gió xuôi thuận đường.
Đạo tẩm nhuận chơn dương không khí,
Muôn vật nhờ báu quí hấp nuôi,
Thảnh thơi khỏe khoắn mừng vui,
Trăm hoa đua nở phất mùi thanh hương.
Làm cho đặng thông thương trên dưới,
Phước đức lành nhuận rưới khắp chung,
Nhờ đây nhơn vật vẫy vùng,
Nhờ đây mở hoát cửu trùng bước lên.
Người học Đạo là nền Chơn-lý,
Nhờ sức người lập chí đạt thành,
Luyện tu chiếm địa vị lành,
Đạo khai tâm tánh bạch thanh huệ từ.
Người có Đạo cũng như có ngọc,
Ngọc không trau nên vóc nên hình,
Thì đâu có vẻ đẹp xinh,
Đức là trau luyện, Đạo hình ngọc kia.
Đạo-đức để xa lìa nhau mãi,
Thì khác gì thuyền lại không sông,
Đức là nước chảy lưu thông,
Tẩm nhuần khắp cả non sông gội nhờ.
Người quân tử bao giờ bỏ Đức!
Đức làm nên thước mực cho người,
Đức còn muôn vật tốt tươi,
Đức minh, minh đức rán khươi cho đời.
Đức cao thượng Phật, Trời do đó,
Đức Thánh Hiền sáng tỏ hơn sao,
Đức như cây có vỏ bao,
Cây mà không vỏ cây nào sống lâu?
Đức tô điểm thanh cao giá phẩm,
Đức từ hòa nhuận tẩm bốn phương,
Đức làm người vật yêu thương,
Đức ân vô lượng phải tường mới cao.
Đức âm đức dồi dào minh mẫn,
Đức lưu hành im ẩm tự-nhiên,
Đức ưa gần với Thánh Hiền,
Người làm âm đức là Tiên trong trần.
Âm đức tợ như vầng trăng chói,
Không khoe mình hay giỏi cao sang,
Sửa mình chánh đính hoàn toàn,
Trọng người như ngọc, như vàng, như châu.
Thi:
Châu trân ngọc báu quí trên đời,
Người thế trọng ưa khắp mọi nơi,
Danh vọng lợi quyền ai cũng muốn,
Người tu sánh tợ món đồ chơi!
* * *
Chơi cho thoả chí đủ mùi đời,
Tửu, khí, sắc, tài các cuộc chơi,
Hưởng hết phước xưa dư lại đó,
Chừng nào mắc họa mới kêu Trời!
* * *
Kêu Trời, Trời biết liệu làm sao?
Họa phước nơi con trước tạo đào,
Phước hưởng chẳng làm gây họa nữa,
Có thương đứng ngó liệu phương nào?
* * *
Nào con có chí luyện đơn hoàn,
Thành tựu rồi sau đặng nghỉ an,
Vượt khỏi sóng trần đương bủa khắp,
Siêng cần Đạo-đức mới là ngoan.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
13 tháng 8, Bính-Tý (1936)
XẢ THÂN GIÚP ĐỜI
Thi:
CAO thanh lạc cảnh toại tâm nhàn,
ĐÀI quí rước người Đạo-đức an,
TIÊN Phật từ bi ra cứu thế,
ÔNG đem con cả lại Thiên-Đàng.
Thầy mừng các con.
Thi:
Đàng sá quanh co chật hẹp nầy,
Dò lần cho khéo bước truông mây,
Sẩy chơn lọt tuốt hang sâu thẩm,
Níu chéo vượt qua kẻo lạc Thầy.
* * *
Lạc Thầy muôn kiếp chịu lầm than,
Nghiệp quả con gieo phải vướng nàn,
Chuyển kiếp thú người, người đến thú,
Dễ gì tránh họa nắng mưa chan!
Thầy trông thấy đoàn con chịu dày dạn cuộc trần ai mãn tháng quanh năm vùi chôn tâm trí vào vòng danh-lợi đày-đọa mãi, luân-hồi ở trong lò Thiên-Quân sanh hóa. Thầy bao nở ngồi an hưởng chốn thanh nhàn, nên phải lâm phàm mà tế độ các con, dùng cơ pháp khai Chánh-Đạo, mở nẻo Thiên-Đàng cho chúng-sanh qui hồi cựu cảnh.
Giờ hôm nay, Thầy đến đây rồi, là ngày giờ hạnh phúc chung cho nhơn loại. Thầy muốn cứu vớt các con thoát khỏi chốn hồng-trần biển khổ, dứt dây quả báo luân hồi; mà Thầy dùng phương pháp chi để cứu độ các con?
Trong đám con, phần đông chưa rõ thông lý Đạo, tưởng Thầy dùng cơ giáo hóa là đủ, nào ngờ phải có một cái Pháp mầu nhiệm bí-truyền, để khẩu khuyết cho con nào chán đời tầm Đạo. Nhờ cái pháp tâm-truyền ấy mới cổi xác phi thăng, vượt ra ngoài vòng tứ khổ, các con nào thấu đáo.
Thi:
Tam-Giáo xưa nay một phép truyền,
Độ người thành Đạo đắc Thần, Tiên,
Ngày nay Thầy đến hưng Chơn-Giáo,
Thống nhứt Tam-Thanh chuyển diệu-huyền.
Các con hầu đàn phải tịnh tâm, Thầy mới dạy đặng.
Thi Bài:
Chuông tỉnh thế rền vang thúc hối,
Đuốc huệ soi dẫn lối thoát trần,
Giúp đời nhơn vật xả thân,
Lập công đền tội gở lần oan khiên.
Như thảo mộc chẳng riêng lợi ích,
Hiến thân sanh chẳng thích an nhàn,
Cỏ hoa nuôi sống thế gian,
Muôn loài nhờ đó được an ổn hoài.
Muốn giúp đời đừng nài khó nhọc,
Khổ bao nhiêu cũng lóc-lăn theo,
Phải cơn sống chết hiểm nghèo,
Non cao biển thẩm rán trèo vượt qua.
Thú xả thân thiệt là khổ hạnh,
Chịu nắng mưa nóng lạnh vì đời,
Nhọc nhằn tâm chí chẳng lơi,
Miễn sao giúp ích cho người đặng thôi.
Loài súc vật làm tôi cho chủ,
Rất trung cang vẹn đủ nghĩa tình,
Đói no nào quảng phận mình,
Một niềm với chúa hy sanh trọn bề.
Thân trâu ngựa não nề đau khổ,
Chịu lao đao xấu hổ chẳng cần,
Làm thì trải hết tấm thân,
Đói ăn cỏ ruộng không cần sắm mua.
Sự tốn hao chủ chưa nhọc sức,
Ở không tiền mà nhứt tâm trung,
Đòn roi chịu đánh thịt rùn,
Cái thân trâu ngựa não nùng biết bao.
Khi già yếu lạnh nhào đau chết,
Khí lực rày yếu hết tứ chi,
Làm nhiều thân thể suy vi,
Đã vầy người thế chẳng gì xót thương.
Đời bao nỡ toan phương độc địa,
Xẻ banh gia cắt rĩa phân thây,
Chặt bầm trăm đoạn như vầy,
Có công giúp ích mà nay khổ hình.
Người sao chẳng niệm tình Tạo-Hóa,
Nỡ lòng nào đoạn sả ăn chơi,
Vui chi những sự lạ đời,
Ăn sao ngon miệng nuốt thời sao vô.
Như loài khuyển giữ đồ cho chủ,
Suốt ngày đêm chẳng ngủ coi nhà,
Có ai lòng dạ gian tà,
Làm hung đánh tiếng chủ nhà dậy ra.
Như con chó biết mà trung tín,
Đứng làm người gian nịnh nên không?
Chó còn chung thỉ một lòng,
Người đâu nỡ dạ bưởi bòng sai ngoa.
Nhỏ hơn hết người ta nhờ cậy,
Sức con tầm công ấy biết bao,
Kéo tơ lộn kén làm sao,
Cho nên tơ chỉ tiếc nào cái thân.
Chịu khổ sở trăm phần hóa kiếp,
Ích lợi chung sẵn dịp lo làm,
Sống đời thôi đã hết ham,
Muốn nên công cán hóa làm nhộng sâu.
Muốn ích chúng nhào đầu chịu chết,
Ôi! Chán đời mê mệt lắm đa!
Hy-sinh thú vật kia là,
Người linh hơn hết liệu ra lẽ nào ?
Thú xả-thân biết bao lao-lực,
Người giúp đời chỉ thực lao-tâm,
Giữ mình đừng tánh lỗi-lầm,
Sau ra độ chúng đọa trầm biển sâu.
Người xả thân mưu cầu lợi chúng,
Làm ích chung quốc-chủng an hòa,
Giống nòi ta thể một Cha,
Thú cầm nhơn-loại cũng bà con chung.
Người tâm chí vẫy vùng cơ hội,
Đem Đạo mầu dẫn lối chúng-sanh,
Dạy đời dữ hóa nên lành,
Mở mang trí óc lập thành quốc gia.
Gieo tư tưởng cọng hòa toàn thể,
Chỉ phương tu đoạt huệ thành Tiên,
Mỗi người có một tánh hiền,
Ắt là nước trị, nhà yên thái bình.
Thi:
Bình tâm thủ đắc lấy cơ quan,
Huấn luyện hồn dân được mở mang,
Nước trị nhà yên hòa hiệp nhứt,
Mạnh giàu Đạo-đức hưởng thanh nhàn.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Mồng 4 tháng 9, Bính-Tý (1936)
HAI MỐI ĐẠI-ÂN
Thi:
CAO cả Càn-Khôn nắm chủ quyền,
ĐÀI sen đở gót tạo khai Thiên,
GIÁO minh nguồn cội lo quày lại,
CHUۍ ý tu hành tác Phật, Tiên.
Thầy mừng các con.
Thi:
Trên cây Thập-Tự suốt mồ hôi,
Đổ máu vì thương tội lỗi đời,
Chịu hết cứu chung cho vạn loại,
Bao nài khổ nhọc, các con ôi!
Đây Thầy giải sơ qua cho các con rõ Đạo.
Cái phương châm cứu thế phải lấy Đạo-đức, nghĩa nhơn, lễ trí làm qui củ chuẩn thằng, huấn luyện người đời cho rõ tường chơn lý cao siêu, hồi tỉnh lo sùng tu tánh mạng.
Dạy người trước phải chánh tâm, tu thân, rồi tề gia, trị quốc. Ai đã mang mảnh hình hài thì phải biết đội ơn hai đấng:
Một là Trời là đấng thanh-cao phú cho loài người một cái tánh thiện lương.
Hai là Cha Mẹ vì người thọ bẩm tinh cha, huyết mẹ, mà tạo ra một cái hình hài xác thịt.
Điểm linh tánh Trời ban cho mỗi người là cái lý tuyệt diệu cao siêu, nhập vào mảnh thân phàm là "hồn hiệp xác". Người nhờ cái bổn-tánh ấy mà biết khôn-ngoan, phân biệt điều lành, lẽ ác, biết phải biết quấy, biết lo buồn. Tóm lại là mọi sự thế gian đều rõ biết.
Nhưng loài người cả ham mê mùi tục lụy mà chôn dập điểm linh-hồn, gây tội lỗi chập-chồng như non cao núi cả. Các con ngày hôm nay bị cái chứng bịnh rất nặng nề, nó ăn ruồng trong gân cốt. Các con không lo tìm phương cứu chữa thì ắt sự chết một bên. Vã lại cái tật bịnh loài người quá ư trầm trệ, nó hóa sâu dòi trong cốt tủy. Sâu dòi đó, cứ ngày đêm rút rỉa, đụt trong gan, ruột, phổi, phèo, khí huyết khô khan, tiêu mòn sức lực. Mà sẵn gặp BIỂN-THƯỚC Thần-Y lương phương diệu dược, ra tay tế độ, khám căn bịnh mạch lạc lẽ nào, có thể rõ căn bịnh mà cứu chữa đặng. Ngày giờ hôm nay, những bịnh nhơn ấy nghe nói thì mừng vui, nhưng không đặng sốt sắng, cứ dần dà mãi. Bịnh ngặt nghèo mới chịu đem lại cầu cứu Thần-Y BIỂN-THƯỚC cũng vô phương, chỉ làm ông tòa lên án chứng chắc ngày giờ phải chết đó thôi ..... Cười. ... Ôi! cái bịnh truyền nhiễm chung cho cả hoàn-cầu mắc phải, thảm than đau đớn, bịnh ấy đôi ngày sau đã yên giấc ngàn thu, ai lại không buồn lo ghê sợ mắc phải.
Về bịnh xác thịt thì còn dễ trị, chớ tật bịnh tinh thần lấy làm ghê gớm tràn đầy tội lỗi, độc ác dẩy đầy khắp mọi nơi. Thầy là Thần-Y BIỂN-THƯỚC ngày nay đến cứu chữa cái bịnh hiểm nghèo của các con. Các con không chịu uống thuốc mà giải trừ thì ắt chờ ngày chết. Ngày chết của các con là "ngày các con sẽ gặp Thầy một lần nữa". Các con phải quì trước tòa phán xét mà khai tội lỗi của các con đã gây ra hồi còn mang xác thịt. Chừng đó các con có cầu khẩn Thầy cứu các con cũng không thể được, các con khá hiểu ý! Con nào còn xót lại đôi chút thiện lương, nhớ đến căn kiếp mình thì lo lập chí tu hành, cầu truyền Đạo-đức, phanh-luyện tinh thần, ấy là những con biết trọng và nuôi nấng phần hồn, trau tria hoàn toàn chí thiện, chí linh, chí bửu.
Về phần xác thịt thì các con nuôi nó bằng vật thực, như các loại ngũ cốc, cùng những món cao lương mỹ vị cho nó có sức lực và khí phách để hoạt động theo ý muốn của các con. Còn về phần hồn, các con biết tu thì cũng phải dụng huyền công của Đạo-Pháp để vận chuyển âm dương, lược lọc tinh ba để bồi bổ cho nó đặng tinh vi hiển đạt. Ấy đó giờ khắc công phu của các con là phương pháp để un đúc, trau-tria cho phần linh-hồn trở nên nhẹ nhàng, sáng suốt, anh linh, hiển hích. Vã lại nếu các con mà nhịn ăn lâu ngày thì phần xác thịt phải ốm gầy, tiều-tụy, sức lực yếu-đuối, suy-vi, còn như các con bỏ tu thì phần linh hồn trở nên mờ ám, nặng nề, khả giáng bất khả thăng, thì không phương siêu xuất tam-giới đặng.
Thầy thăng.
Ngày 26 tháng 8, Bính-Tý (1936)
TỈNH THẾ
Thi:
CAO đức thấm nhuần khắp tứ châu,
ĐÀI sen thọ hưởng quả linh mầu,
GIÁO dân tỉnh ngộ đường Chơn-Đạo,
CHỦ định chiêu chương Thánh-Đạo thâu.
Thầy mừng các con.
Phú:
Nguồn Đạo-đức thâm vi nhiệm lý,
Bổn chơn truyền lập chí tìm ra,
Máy dinh hư chẳng có bao xa,
Nguồn tận diệt bày ra trước mắt.
Cuộc xáo lộn Đông, Tây, Nam, Bắc,
Nạn chiến tranh đạo-tặc dẫy tràn,
Ôi! muôn nhà trăm họ lầm than,
Chịu khốn khổ tai nàn thảm thiết.
Đạo ra đời là đời tận diệt,
Nên Phật, Tiên cho biết mà tu,
Người thế thường chác những hèn-ngu,
Cấm cổ chết trong ngục tù tội lỗi.
Khuyên nhủ mãi sao đời không tự hối,
Mảng vui say hụp lội biển mê,
Cuộc hành tàng dòm thấy bắt gớm ghê!
Người kêu réo mãi không hề đếm xỉa.
Tai Trời đến mới kinh hồn mất vía,
Nhớ lại Thầy, Thầy đã đi đâu!
Quyết lấp xô biển khổ thành sầu,
Nhưng phải chịu bể dâu trong một thuở.
Trường Thiên:
Gióng chuông Thánh Đức truy hồn,
Đạo hưng cứu thế bảo tồn vạn linh.
Cuộc đời đáng thị đáng khinh,
Đáng chê đáng bỏ, chôn mình làm chi?
Đời đáng ghét, đời đáng khi,
Đáng xa cho rảnh, đáng ly cho rồi.
Đời người là vũng tanh hôi,
Là ao nhơ bẩn, là mồi quỉ câu.
Mắt phàm trông thấy sắc mầu,
Dục lòng tham chạ, cắm đầu chết nguy.
Trông ra nhơn loại thời suy,
Toan bề đâm chém chẳng vì thương yêu.
Làm cho cột ngã thành xiêu,
Nhà hư nước loạn tiêu điều thế gian.
Nhìn đời đổ lụy chứa chan,
Xót thương cho nỗi mấy đoàn con ngu.
Chịu trong khám tối mây mù,
Sa chơn vào chỗ lao tù ngàn năm.
Thầy nhìn phát động thương tâm,
Đến đây chỉ chỗ sai lầm của con.
Gây thành tội chất bằng non,
Trả cho tiêu hủy thì còn chi thân!
Mê đời chung chịu khổ thân,
Đạo-tâm u-ám tinh-thần muội-mê.
Thầy thấy bầy con ở thế-gian, vì miếng ăn đất ở, vì danh vọng mà các con cắn xé nhau, chia rẻ nhau, nào khác chi rắn chung hầm, vì đói mà cắn giết nhau, nuốt ăn nhau, đâu biết suy xa nghĩ tột.
Ôi! các con đồng mắc phải tội tình, chịu cái nạn chung trong ao sầu, vũng khổ, mà các con không tầm đường tẩu thoát, lo cứu vớt cho nhau, lại toan bề sát hại lẫn nhau. Khờ lắm thay! Dại lắm thay!
Cái cuộc đời là sông mê bễ khổ, con người chỉ bị ham muốn mà linh-hồn hãm chặt vào chỗ nguy nàn. Phải biết thế gian là cuộc bày trò gạt chúng, toàn là giả-mộng phù-vân. Bởi vậy cho nên thất-tình, lục-dục nó luống mê sa mồi lợi-lộc, bã vinh-hoa mà chôn chặt con người trong bốn tường: sắc, tài, tửu, khí. Thiệt đời là khổ, muôn việc chi cũng khổ, con người vì ham đem trí não vào cuộc vui thích của tình đời mới chịu buồn, lo, sầu, thảm, não-nuột, đớn-đau.
Mở mắt chào đời, người đà thấy khổ. Ôi! từ sanh chí tử, biết bao nhiêu là nạn nọ tai kia, đến khi lưng mõi gối dùn lại bịnh tật phát sanh, chồng chập muôn vàn sự khổ.
Nhưng thế gian dẫu là chí khổ, mà khổ ấy lại cần phải có, vì có khổ, thế gian mới trở nên một trường thi tấn-hóa cho nhân loại.
Tuy nhiên, Thầy nay hỏi thử các con: Có thiệt tại đời là khổ, hay tại ở các con tạo gây lấy khổ cho mình?
Các con hãy xét, đời đâu có khổ, chỉ tại các con chác khổ mà thôi. Bao nhiêu sự ham muốn, đắm mê, lầm lạc là bao nhiêu con đường mở rộng để rước ngay cái khổ vào mình. Không ham muốn, đắm mê, lầm lạc, làm sao có oan khiên, quả báo, luân-hồi. Hễ ham vinh hoa phú quí thì chịu tâm khổ, thân lao; mà muốn vợ đẹp con khôn lại bị thê thằng tử phược. Cứ mảng say mê trong trường mộng ảo, miệt mài theo bốn vách, chìu lụy với bảy tình, mà theo đuổi muôn vàn điều ưa thích muốn ham, thế mới gây nên những cái thảm họa tàn khốc cho thây nằm chật đất, máu chảy thành sông, thì biểu sao luân-thường không bại-hoại, Đạo-đức chẳng suy đồi.
Ôi! đời đã đến thế thì đời chỉ là một trường tranh đấu kịch liệt, một cuộc tàn sát gớm ghê, nạn khổ dẫy đầy, đao binh chất ngất, đạo tặc lung tung cho đến đổi cùng chung một bọc, cùng chung một nòi, mà cũng tương tàn, tương sát lẫn nhau cho vừa lòng dục, thì còn chi phong tục, kỷ cương, tình nghĩa!
Đời đã đến thế thì dầu ai trí cả tài cao bực nào cũng đành thúc thủ vô sách, chớ có thế gì khiển nỗi nhơn-tâm, dường ấy là đời sắp tận vong tiêu diệt đó.
Nhưng tuy vậy mặc lòng, nếu hôm nay đời lại biết lấy nền Đạo-đức làm trung tâm cho mối chuẩn-thằng qui-củ, thì sự tình tệ cũng dần dần ngày một thối lui mà nhượng bước cho sự thiện-lương thuần-mỹ.
Phải nhờ Đạo-đức mới huấn luyện hồn dân, chế kềm tâm chúng mà dìu-dắt trở lại con đường nghĩa-nhơn hạnh phúc.
Con người phải hiểu biết cho phân minh rành rẽ, luật báo ứng nhơn quả, thì mới chịu hồi tâm cải ác tùng lương mà tu phong hóa, chỉnh luân thường, để làm cái giới hạn cho nhơn sanh. Được vậy đời mới lần lần nhiễm lấy Đạo-đức-tinh thần mà ưa làm phải làm lành, biết tránh tai, tránh họa. Lâu lâu con người lại thông suốt đến cả căn cơ Đạo-đức mà tầm ra nguồn cội của chúng-sanh.
Đã tầm ra nguồn cội ấy thì nhơn loại sẽ bắt đầu thương yêu nhau trở lại, vì sẽ rõ biết tất cả chúng-sanh ở thế gian nầy dầu thảo mộc, thú cầm hay nhơn loại chi cũng cùng chung một lò sanh hóa, cùng chung một khối tinh thần; dường ấy lớn là anh, nhỏ là em, thì lòng bác ái mới mở rộng ra, mà không bao giờ còn loài nào muốn ăn thịt, nhai xương, nút máu loài nào nữa hết. Con người chừng ấy sẽ trở nên chí thiện mà không bao giờ còn những thói nhỏ-nhen, hèn-mạt như tham-lam, ganh-gỗ, oán-chạ, thù-vơ, ghen-hiền, ghét-ngõ, vân vân. Chừng đó là đời đã thái-bình, dựng nghiệp Thuấn Nghiêu, phong võ điều hòa, bốn phương cọng lạc. Ấy có phải là nhờ nơi Đạo-đức mà un đúc lòng người đó chăng?
Ôi! Báu trọng thay cái Đạo! quí hóa thay cái Đạo! mà thế gian còn chưa hiểu rõ. Vã như một người biết Đạo, mười người biết Đạo, trăm ngàn người biết Đạo, cả gia đình quốc gia biết Đạo, khắp xã hội hoàn cầu biết Đạo, thì còn ai đâu mà sanh lòng quấy-quá? Có phải là sẽ khỏi thất công cho chánh-trị giữ gìn chăng?
Ôi! đời đã lập hình-pháp rất nghiêm, dùng khí-giới rất nhiều, mà thử xem: đời độc ác, chẳng những cũng vẫn huờn độc ác mà còn càng thêm độc ác mỗi ngày gia-tăng lên mãi nữa kìa!
Chỉ có chừng nào nhơn loại biết sợ cơ Trời báo ứng, biết ham Đạo-đức tinh-thần thì dẫu một cái tội chi thầm tối, một cái ác chi bí-mật là cũng chẳng bao giờ ai dám làm đâu? Vì thầm tối bí mật với ai, chớ với thần lương tâm, với cơ báo ứng mà còn kín nhẹm nỗi gì?
Thế nên không chi ích-lợi cần yếu cho đời bằng Đạo với Đức. Hễ Đạo-đức hoằng khai, đời đã thâm nhiễm thì con người mới hết dục-vọng, mà hết dục-vọng là hết tàn ác, hết tàn-ác là hết khổ-đau. Vậy nên các con phải chung tay hiệp sức mà rán lo sao cho bành trướng Đại-Đạo, để độ rỗi quần sanh trong thời mạt kiếp này.
Vã đời thường có trị có loạn, mà loạn hễ cùng là tất phải trị. Đạo cũng có thạnh có suy, mà suy đã cùng thì rồi lại thạnh. Sự thành bại, hưng vong ấy cũng bất ngoại là cơ Đạo chuyển.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Ngày 18 tháng 8 - Bính-Tý (1936)
TRÁCH ĐỜI
Thi:
CAO ban ân-huệ tẩm nhuần chung,
ĐÀI ngọc hào-quang điệp-điệp trùng,
BỒ bặc Đạo qui cơ tại mục,
TÁT thành Chơn-Giáo bảo tâm trung.
Thầy mừng các con.
Thi:
Bao phen khuyên nhủ mấy đoàn con,
Cạn tiếng ráo hơi trí mỏi mòn,
Vẫn trách đời sao mê-muội quá,
Trơ-trơ gieo họa tội bằng non.
Thi Bài:
Đời chẳng chịu tầm phương giải thoát,
Đời tội tình lầm lạc biết bao,
Đời vầy còn nói làm sao,
Đời gây tai họa cho nhau đảo huyền.
Đời chác những não phiền khổ khốc,
Đời mê man ngang dọc bạo tàn,
Đời người nào đặng giờ an,
Đời sanh độc-ác ngổ-ngang lẫy-lừng.
Đời không Đạo, lửa hừng cháy dậy,
Đời lo phương vùng vẫy tránh tai,
Đời càng trăm đắng ngàn cay,
Đời càng lắm giọng mĩa mai nịnh tà.
Đời nên lánh cho xa nghiệp-báo,
Đời phải tầm chơn Đạo tu thân,
Đời sao tiều-tụy tinh-thần,
Đời hưng vật-chất người gần diệt vong.
Đời ai cũng mong lòng thủ lợi,
Đời Đạo khai để khượi chơn-thành,
Đời người ma quỉ rấp-ranh,
Đời như trái chín trên cành gió đưa.
Đời chung chịu gió mưa nóng lạnh,
Đời sao đời tranh cạnh lẫn nhau?
Đời người tâm trí lảng-xao,
Đời ưa náo-nhiệt sắc màu dị-đoan.
Đời lanh lợi khôn ngoan mau chết,
Đời chừng nào diệt hết oan-khiên,
Đời còn loạn-lạc ngửa-nghiêng,
Đời không bền-bỉ vững-yên nhiều ngày.
Đời phải chịu Thiên-tai, Địa-ách,
Đời phạt hình một cách gớm-ghê,
Đời xa chơn-lý giác mê,
Đời sao quá đỗi vụng-về chẳng lo.
Đời a mãi trong lò sanh hóa,
Đời sóng tình xô ngã non cao,
Đời như đèn đã hết dầu,
Đời hưng chánh-giáo người hầu mở mang.
Đời mở mang về đàng Đạo-đức,
Đời mở mang trí thức tinh thần,
Đời tròn trung hiếu nghĩa nhân,
Đời mà biết Đạo thì gần Phật, Tiên.
Đời tu luyện hy Hiền hy Thánh,
Đời chấn hưng nước mạnh dân giàu,
Đời tu chỗ thấp đến cao,
Đời lo giúp lẫn đồng-bào chúng-sanh.
Đời biết phăn nguồn lành cội phước,
Đời cá hồ vùng vượt biển đông,
Đời hưng chánh-lý Đại-Đồng,
Đời qui một gốc lập công tu hành.
Thi:
Hành theo Đạo-đức trọn đời an,
Luyện tánh hư không nhập Niết-Bàn,
Quét sạch bợn trần tâm chí tịnh,
Thông thương trên dưới Đạo huy-hoàng.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Ngày 25 tháng 8 - Bính-Tý (1936)
QUẢ BÁO LUÂN HỒI
Thi:
NGỌC linh trước mắt mấy ai tường,
HOÀNG-phụ thấy đời xiết nỗi thương,
THƯỢNG đạt nên người chưa mấy kẻ,
ĐẾ Thiên thương xót đến đem đường.
Thầy mừng các con.
Thi:
Thinh thang bao quát cả Càn-Khôn,
Thế-giới hư-linh thế-giới hồn,
Hồn xác lẫn nhau bồi quả kiếp,
Xanh xanh qua lại lúc hoàng hôn.
Thầy thấy đời quá ư tội lỗi, nhơn sanh xua đuổi về đường vật-chất làm tiêu mất nẻo linh-quang, mảng vui say ưa thích danh vọng lợi quyền, nào thấu đáo máy hành-tàng cơ dĩ định.
Nay nhằm thời kỳ tận diệt, cuộc dinh hư tiêu trưởng sắp bày, người người còn mê mẫn đắm say theo tửu, khí, sắc, tài, nào có hay sự sắp khổ bên tai, cơ xáo lộn biến thiên, đó là muôn vật chịu tiêu diệt đọa đày trong Thiên Địa đại-luân-hồi. Cơ mạt kiếp hầu kề, nên chi Thầy không nỡ để cho bầy con phải chịu tận vong, hiệp Tam-Giáo, hội đồng Phật, Thánh, Tiên mà hưng truyền Đại- Đạo. Vì ở thế gian cũng có người lành, kẻ dữ, đứa hiền lương Đạo-đức chuộng tinh thần, ham ích chúng, còn đứa lại hung ác bạo tàn mê vật chất, mến tình đời, mà xa đàng Thiên Đạo. Thầy thấy vậy, không lẽ để các con cả lành lẫn dữ chung chịu trong cơ biến đổi của cuộc tang thương, nên giáng thế lập Chơn-Đạo, khai Chơn-Giáo Đại-Học- Đường là minh đức tân dân, chỉ ư chí thiện. Con nào biết thì noi theo đó mà làm phương-pháp thoát ra khỏi đường sanh tử.
Thi:
CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO đức minh thông,
Giáo dục hồn dân đến cảnh không,
Qui-củ chuẩn-thằng nền tảng Đạo,
Linh-hồn tấn-hóa giữ đều công.
Trường Thiên:
Công bình Tạo-Hóa hay thương,
Thương đời nên phải dùng phương cứu đời.
Cơ mầu nhiệm Phật, Trời ẩn giấu,
Pháp tâm-truyền tri thấu bổn nguyên,
Gầy nên thủy tú sơn xuyên,
Toàn thông tuyệt xảo diệu-huyền ẩn vi.
Người thượng đạt tầm suy nghĩ ngợi,
Khảo cứu thông vạn đợi tinh vi,
Âm dương vận chuyển hiệp qui,
Hai năng lực đó cứ thi hành hoài.
Thầy Chúa Tể hoằng khai Đạo-đức,
Nắm mối giềng hiệp nhứt Càn-Khôn,
Chia ra biết mấy nhiêu hồn,
Nhập vào vật chất bảo tồn cơ quan.
Ba Tôn-Giáo vén màn bí mật,
Rõ pháp linh Tiên Phật sắp bày,
Cho đời biết lý Đạo khai,
Linh-hồn ảnh hưởng trần ai lẽ nào.
Từ thảo mộc được vào nhơn loại,
Quả kiếp nhồi mắc phải khổ lao,
Càng bền chí bước càng cao,
Càng tu luyện mãi càng vào cảnh Tiên.
Linh-hồn rất linh thiêng biến hóa,
Đoạt thần thông phép lạ vô hình,
Thiệt là chí bửu trường sanh,
Luyện cho đắc huệ khiết thanh hoàn toàn.
Khí hư vô bao trùm Thái-Cực,
Thái-Cực ngôi độc nhứt chủ trương,
Thần thông biến hóa khôn lường,
Cơ quan đồng mở phi thường Đạo CAO.
Lý quang-minh bao trùm Võ-Trụ,
Tạo Càn-Khôn khí cụ sắp bày,
Tri nguyên quá khứ vị lai,
Gầy nên các giống đặt bày vẻ vang.
Thái-Cực Đại-Linh-Quang nguyên thỉ,
Động tịnh cơ lý khí tương hòa,
Ở trong một khối chia ra,
Thiên hình vạn trạng tinh ba ẩn tàng.
Mỗi vật có linh-quang cư tại,
Hồn thiêng-liêng vạn tải sanh tồn,
Lạ gì có dại có khôn,
Bởi chưng thanh trược nên hồn thấp cao.
Linh-quang chịu nhập vào vật-chất,
Vật-chất nhờ tánh Phật điểm khai,
Linh-hồn bỏ xác ra ngoài,
Thì trong vật-chất hình hài tiêu tan.
Linh-hồn được mở mang thông thái,
Kinh nghiệm đời quấy phải phân minh,
Nhập trong các món hữu hình,
Lập công bồi đức trau mình nên gương.
Tấn-hóa mãi trên đường Đạo-đức,
Bỏ xác về hiệp nhứt bổn nguyên,
Thiệt là diệu-diệu huyền-huyền,
Bất tiêu bất diệt là Tiên trên Trời.
Hồn phải chịu luân-hồi học hỏi,
Học cho xong các cõi mới thành,
Học cho rõ cuộc tử sanh,
Rõ đường tấn thối dữ lành giác mê.
Hồn thanh bạch lo bề Đạo-đức,
Tu luyện hầu hiệp nhứt cảnh không,
Cầu truyền tâm-pháp thần-thông,
Lập tâm thanh tịnh dụng công đêm ngày.
Đoạt thấu chỗ bổn-lai diện-mục,
Rửa sạch lòng phàm-tục bợn-nhơ,
Trầm-tư mặc-tưởng huyền-cơ,
Thoát thai thần hóa một giờ đắc minh.
Hồn thoát khỏi tội tình nhơn-quả,
Đi mãi trong đường cả Phật, Tiên,
Nên gương đức hạnh lưu truyền,
Thế gian ca tụng người hiền đắc đơn.
Hồn nào làm bất nhơn phi nghĩa,
Chịu đọa đày nhiều phía gớm ghê,
Mang thân ô trược nặng nề,
Linh-hồn mờ-ám muội-mê bao vòng.
Chừng nào gỡ cho xong thể chất,
Cột ràng quanh chất-ngất dây chằng,
Biết nguồn Đạo-đức tầm phăng,
Đoạn tiêu dứt sạch vụn vằn cắt ra.
Cổi lốt trược ngoài da trong bọc,
Lấy lòng chơn lừa lọc thanh-quang,
Linh-hồn thong thả nhẹ nhàng,
Hết ưa mùi tục, không màng sướng vui.
Nợ nhân quả lấp vùi tánh đức,
Biết ngày nào gỡ dứt tiền khiên,
Trả vay, vay trả liền liền,
Nhơn nào, quả nấy, nghiệp duyên buộc mình.
Bóng cong vạy tại hình cong vạy,
Tội phước đi qua lại không chừng,
Xác phàm sung sướng vui mừng,
Linh-hồn phải chịu bâng-khuâng não-phiền.
Gieo giống chi mọc liền giống nấy,
Cảm vật nào vật ấy ứng cho,
Coi như trong cái xe bò,
Bánh xe lăn trả kịp giò bước chưn.
Bò ngừng lại bánh ngừng đứng lại,
Chậm hay mau là tại nơi bò,
Bánh xe nó chạy theo giò,
Chạy không cũng tại con bò gây ra.
Xét lỗi người, lỗi ta ai xét,
Sương nhà người, người quét đặng thôi,
Muốn mau thoát kiếp luân-hồi,
Kiếp này rán chịu quả nhồi cho mau.
Đời cũng có giàu nghèo cao thấp,
Tại nơi người tạo lập nó ra,
Rồi than oán-trách Trời già,
Không ngờ ta chác lấy ta cho nhiều.
Lòng tham dục bao nhiêu cho đủ,
Để thất tình làm chủ lấy tâm,
Khiến gây tội ác lỗi lầm,
Người chưng mắc phải vướng nhằm khổ nguy.
Lòng quấy quá tráo chì thay bạc,
Mỏi mong lo cố gạt của đời,
Không dè mắc phải lưới Trời,
Thưa mà không lọt chuyện người mảy lông.
Luật báo ứng phép công thưởng phạt,
Hành hồn rồi hành xác chẳng chơi,
Nhơn nào quả nấy chẳng rời,
Đòn cân công luật Phật Trời thưởng răn.
Đặng quả ngon thì ăn lấy hột,
Gieo lại mà mai mốt còn ăn,
Nhược bằng hưởng quả hột quăng,
Ngày sau thèm khát xin ăn của người.
Nay đắc thế vui cười cho lắm,
Sau này thời bụi bặm lấp thân,
Biết lo bố đức thi ân,
Luân-hồi trở lại hưởng phần cao sang.
Nhược tánh ác bạo tàn gây họa,
Kiếp sau mang nghiệp quả phạt hình,
Sao người chẳng biết sửa mình,
Cơ Trời báo ứng hiển linh rõ ràng.
Người quân tử vững vàng tâm chí,
Chọn đường ngay trực chỉ Tây-Phương,
Kìa là nước mắt muôn đường,
Lại qua quanh quẹo phải tường chọn đi.
Thấu lý Đạo vô-vi thanh tịnh,
Thì tâm hồn an tịnh lo tu,
Thuận theo lẽ Đạo ôn nhu,
Tự-nhiên vô sự võng dù mặc ai.
Lo nhảy thoát ra ngoài khuôn khổ,
Để thất-tình cám dổ hư thân,
Mượn nhành dương quét bụi trần,
Đặng cho phát triển tinh-thần cao siêu.
Đường quanh cong theo chiều mà bước,
Chí tâm bền thì được thành công,
Làm cho chánh-lý lưu thông,
Lập tâm sửa tánh kềm lòng phá mê.
Kìa biển hẹn non thề phải dứt,
Dây buộc mình cắt đứt chớ vương,
Nhu thắng cang, nhược thắng cường,
Mềm còn, cứng bể, thấy thường xưa nay.
Họa phước ấy không sai báo ứng,
Mượn kiếp này gieo chứng hậu lai,
Người tài gặp kẻ cao tài,
Ỷ tài phải chịu mang tai liền liền.
Thi:
Liền vay liền trả, trả vay hoài,
Linh tánh lộn nhào kiếp hậu lai,
Đày đọa gỡ xong oan nghiệp trước,
Làm lành hưởng phước chẳng hề sai.
Sự báo ứng của Trời Đất sắp bày từ tạo Thiên lập Địa. Hễ người biết tu hành, làm lành, siêng năng Đạo-đức thì trở lại chỗ cội phước hưởng an. Còn những kẻ hung-ác bạo-tàn phải chịu dây oan cột trói.
Trời đất rất công minh, hễ làm lành thì lành trả, gây họa thì họa lai. Trong thế gian, tại sao có kẻ nghèo người giàu, sang, hèn, khôn, dại?
Đó là tại người gây. Vã thí như các quả riêng mỗi giống cây, sao lại có trái ngọt, trái chua, trái cay, trái đắng, trái chát... Sự giàu nghèo cũng vậy. Hễ gieo giống ngọt thì quả ngọt hưởng nhờ, gieo giống chua thì quả chua nó đậu.
Các con gieo nhiều mọc nhiều, gieo ít mọc ít. Ngày nay, các con được ấm no phải lo làm phước đức, phải lo gieo nữa đặng mùa sau có mà nuôi thân thể, chớ ăn đứt giống (gặt tuyệt nòi) còn chi sanh trở lại.
Thi:
Thầy nhỏ ơn lành xuống thế gian,
Ban thêm chén thuốc tỉnh mơ màng,
Biết đường Đạo-đức là chơn lý,
Thì rán lo tu nhập Niết-Bàn.
* * *
Niết-Bàn thong thả lắm con ôi!
Thú lạ Thần Tiên khoái lạc rồi,
Thanh-tịnh tiêu-diêu an tự toại,
Đâu còn chuyển kiếp chịu luân-hồi.
* * *
Hồi nào lầm-lạc nói làm chi?
Nay gặp Thầy đây bước kịp kỳ,
Còn luyến hồng-trần mang thống khổ,
Hạ-Nguơn tận diệt lắm điều nguy.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Mồng 10 tháng 8 - Bính-Tý (1936)
LÝ THIÊN NHIÊN VÀ LÝ TỰ NHIÊN
CAO-ĐÀI GIÁO-CHỦ, Thầy các con.
Thi:
Cầm cân Tạo-Hóa có đâu riêng,
Chìm đắm kìa ai mất bổn-nguyên,
Biển khổ lao-xao cơn sóng gió,
Sông mê đào-độn lúc chinh-nghiêng.
Tâm-truyền đã lãnh nên bình-tỉnh,
Bí-pháp vừa trao chớ đảo-điên,
Luyện tánh tu tâm hồi cựu-vị,
Như vầy mới đáng lẽ thiên-nhiên.
Thầy giải về LÝ THIÊN-NHIÊN của Trời và LÝ TỰ-NHIÊN của người.
Thầy trông thấy cõi dinh-hoàn, nhơn-loại cạnh-tranh xâu-xé, cứ hại lẫn nhau, giết lẫn nhau vì quyền-lợi. Mảng mưu sự sung-sướng cho thân mà nào là những cuộc truy hoan đã làm cho mất cả tinh thần, đến phải cam thân chìm đắm vào biển trầm-luân, luống bị bốn tường đóng chặt, chớ chẳng biết tu tâm luyện tánh chi, rồi gặp lúc phong ba là phải đành chịu cho sóng dồi gió dập. Uổng thay! tiếc thay!
Thể người cũng đồng như Tiên, Phật, mà chẳng đặng cửu viễn trường sanh, thoảng mảng tuổi lối tám mươi, chín chục thời bóng đã xế tà, rồi một kiếp làm người vô dụng, chẳng biết lấy lương-tri, lương-năng mà phán-đoán, xét- suy, mịch tầm chơn-lý thật hành, lại để cho mờ ám tối tăm rồi sa-đọa. Ấy là vì theo cái lẽ "Tự-Nhiên" của người mà bỏ lý "Thiên-Nhiên" của Trời đó.
Lý "Thiên-Nhiên" là về tinh thần, nên chỉ chuộng phần linh-hồn cao-siêu mà chẳng coi cái xác thịt trược-nhơ này là ra chi hết. Bởi vì mỗi con Thầy đã ban cho một cái linh-tánh giáng trần để mượn xác-thân đặng dùng nguơn- tinh mà bảo tồn nguơn-khí hiệp với nguơn-thần, tức là luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, đặng thành Tiên tác Phật mà phản bổn huờn nguyên hầu có thọ hưởng sự thanh nhàn nơi cõi Niết Bàn là chốn thế-giới thiêng-liêng, bất tiêu bất diệt.
Sông, núi, cỏ cây nơi thế gian dời đổi muôn lần, chớ linh-hồn vạn vật đời đời thung-dung tự-toại. Nhưng thảm thay có đi mà chẳng biết đường về, xuống hồng-trần rồi đắm-đuối mê-sa mà bỏ tánh tự-nhiên, chẳng lo Đạo-đức, chẳng biết tầm Chơn-Đạo cùng Tiên-Thiên Đại-Đạo mà thọ pháp, lo tu để hầu trở lại mà về với Thầy.
Ở cõi trần, hễ sanh ra rồi thì cứ theo lẽ thuận hành âm dương giao phối Hậu-Thiên mới sanh ra ân-ái mà luống chịu buộc mình vào tứ khổ, tứ tường bao quanh vây chặt. Hễ có ái-ân thời phải sanh-sản ra con cùng cháu (con cháu ấy thuộc về hóa-nhân cũng như hạng cầm thú mới chuyển kiếp đặng làm người vậy). Cho rằng đặng vậy là hạnh phúc để nối hậu theo cái thường tình nhơn-đạo, chớ nào ngờ ấy là đã vướng ngay vào mặt lưới trần mà khổ lụy với thê-thằng tử-phược buộc ràng vương-vấn trói-trăn. Đã vậy nếu có khuyến tu lại còn hẹn mai hẹn mốt. Thời gian đã qua rồi thì lưng đã mỏi, gối đã dùn, tam bửu mòn hao, ngũ tạng suy yếu. Ô hô! "Tam thốn khí tại thiên ban dụng, nhứt đán vô thường vạn sự hưu!" Rồi là một kiếp luân-hồi vậy. Vì con người đã quá trầm-luân thống-khổ, nên nay chính mình Thầy là NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ đã động mối từ-tâm, cũng vì tánh đức háo-sanh mà chẳng nỡ để cho con người tiêu diệt, nên mới rọi lằn điển quang giáng ở cõi trần, cốt lập Tiên-Thiên Đại-Đạo qui nguyên Tam-Giáo và dùng Tâm-Pháp truyền chơn mà độ rỗi các con.
Người mà theo Lý Thiên-Nhiên, biết dụng công-phu, nghịch chuyển tinh-khí giao cảm nguơn-thần cho thành Tiên, Phật, dứt bỏ hồng trần thời người ấy là bực Nguyên- Nhân (1). Còn người mà theo lẽ tự-nhiên, sanh ra ở cõi trần chịu những điều bắt buộc theo việc trần-cấu, sanh-sản về hậu-thiên cơ-ngẫu nữa thì chịu trong luật quả-báo luân- hồi.
Thi:
Một lý phân hai thuận nghịch hành,
Nghịch hành tu luyện đắc trường sanh,
Vô-Vi Đại-Đạo nào ai thấu!
Thấu đặng về nơi tử-phủ thành.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
* * *
Chú thích:
Nguyên-Nhân là nguyên khí chất Tiên-Thiên giáng sanh làm người. Hóa-nhân là từ bực côn-trùng, thảo-mộc tiến-hóa lên cho đến loài người.
Mồng 9 tháng 8 - Bính-Tý (1936)
KHỞI TRUNG TÂM ĐẠO
Trung Tâm Điểm (Trung Tâm Đạo "Đại-Thừa")
CAO-ĐÀI GIÁO-CHỦ, Thầy các con. Thầy mừng các con.
Thi:
Đạo cơ sanh-hóa tạo Càn-Khôn,
Đạo bổn hư-vô vĩnh-viễn tồn,
Đạo pháp Tam-Thanh Tam-Giáo độ,
Đạo qui tam ngũ luyện thuần-phong.
Đạo là hư-vô chi-khí, phân định âm dương, tạo thành Trời Đất, rồi nhờ thanh trược hỗn hiệp, âm dương giao phối mà sanh hóa ra vật-chất muôn loài, lần lần đến thảo mộc, thú cầm và nhơn loại. Nên cả thảy đều có cái bổn thể chơn-như chẳng khác gì nhau.
Con người thọ Tiên-Thiên khí làm linh tánh, rồi giao cảm với Hậu-Thiên âm dương mới thành hình .
Thân người có tam-bửu ngũ-hành, đó là do nơi cơ Đạo sanh hóa trọn đủ, đối với Trời vậy.
Người là Tiểu-Thiên-Địa đồng đứng vào bực tam-tài, nên cái kiếp đã sanh hóa ra làm người trong võ-trụ là phải trải qua nhiều lúc khổ nhọc, đớn đau dữ tợn. Vậy muốn thoát khỏi cõi hồng-trần, ly tứ-khổ thời phải lo bồi công lập đức, dưỡng-tánh tu-tâm, tầm học chơn-truyền Đạo-Pháp mới siêu xuất đặng. Lời xưa còn tiên tri rằng : " Mạt hậu Thiên khai Huỳnh-Đạo". Tiên tri ấy tức là chỉ vào ngày nay Đạo mở bùng ra cho chúng-sanh tu hành, có gồm cả tam-thừa cửu-phẩm, cũng do nơi qui luật Tam-Giáo mà Thầy chế đổi làm một con đường tắt để đưa các con về cựu-vị.
Người muốn làm Tiên, Phật, hay là các vị Tiên, Phật đã đại-giác, đại-ngộ, thành Đạo đều phải tu từ bực tiểu- thừa rồi mới đến đại-thừa.
Tiểu-thừa là Nhơn-Đạo. Người tu theo bực tiểu-thừa phải chịu dấn thân vào khuôn khổ tôn-giáo. Tiểu-thừa thì chỉ dạy về hữu hình. Con người giữ cho tròn theo giới-luật đó tất cũng như mượn con đường hẹp ấy mà nương chơn đi lần đến con đường rộng lớn minh-mông là đại-thừa vậy.
Người mới tu, Đạo hạnh phải giữ cho hoàn toàn trước về Nhơn-Đạo cho xong, rồi sau bèn học đến Thiên-Đạo là tầm cơ siêu thoát ra khỏi thế-giới vật-chất mà đến cõi thế- giới tinh-thần.
Bực Đại-Thừa dạy về vô-hình, nên cần tu tánh luyện mạng, muôn việc có như không có. Xưa kia KHỔNG-THÁNH cũng đã rõ thông chí lý về đại-thừa trong lúc HẠNG-THÁC truyền trao, nên sau mới thành đến bực Đại-Thành Chí-Thánh. Nhưng phần nhiều truyền dạy cho đời là chỉ về đường Nhơn-Đạo, cứ lo rộng mở cho con người biết luân-thường Đạo-lý. Còn về tâm-pháp thì dạy cho có một phần ít trong đệ-tử thôi. Cho nên đời sau tưởng lầm rằng KHỔNG-THÁNH không hề tu luyện đến Thiên-Đạo, chớ kỳ trung sao sao cũng phải rõ thông cơ Tạo-Hóa, hòa hiệp máy âm dương mà luyện thành kim-đơn thì mới thành Đạo đặng. Vậy Đại-Thừa tức là "Đại-học chi Đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện".
Thiên Đạo nay:
NHO-giáo gọi là: chấp trung quán nhứt.
THÍCH-giáo gọi là: bảo trung qui nhứt.
ĐẠO-giáo gọi là: thủ trung đắc nhứt.
Người tu đến bực Đại-Thừa đã thọ chơn-truyền bí- pháp rồi thì cần phải phân chia ngày giờ mà tu luyện cho cái tâm trở nên trong sạch, chẳng bợn hồng trần, phản hồng vi bạch, mà yên tịnh lặng lẽ để đoạt cơ Tạo-Hóa, vào bộ Tiên-gia, hầu thâu tiếp cái huyền-khí của Trời đem hiệp với cái nguơn-khí của người mà tạo thành Tiên-đơn. Vậy nên đây Thầy dạy kỹ các con tu bực Đại-Thừa phải cần tầm nơi thanh-khí mà hỗn hiệp âm dương, điều hòa đủ 8 lượng chơn-dương, 8 lượng chơn-âm làm thành một cân đại-dược tại cung "LY" rồi điều dưỡng đủ thập ngoạt hoài thai, tam niên nhũ bộ thì cái chơn-thân mới giao tiếp Tiên- Thiên mà nhập xuất Thiên-môn được; song cũng do nơi Thầy tùy công đức mà bố hóa cho các con.
Thi:
Luyện-tánh tu-tâm học Đạo mầu,
Tam-Thanh Chơn-Pháp Đạo tham cầu,
Chơn-thân hiện xuất thông Thiên-Đạo,
Thượng tiếp Tiên-Thiên thoát địa-cầu.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Ngày 25 tháng 8 - Bính-Tý (1936)
KHUYẾN TU CHO THUẬN THIÊN-Ý
Thi:
CAO thượng Đạo truyền giải nạn eo,
ĐÀI linh trú ngụ lúc buồn teo,
TIÊN-Thiên diệu-pháp khai tâm giác,
ÔNG độ người mê khỏi hiểm-nghèo.
Thầy mừng các con.
Giờ nay, Thầy giáng đàn để đôi lời bí-khuyết tâm- truyền cho các con dò xét, tầm tu cho thuận Thiên-Đạo, thoát cảnh diêm-phù, tránh khỏi lưới trần-lao nhốt hãm.
Phú:
Cơ mầu nhiệm của Tạo-Đoan, ẩn vi có tầm suy mới thấu đáo,
Pháp tâm-truyền, đường Chơn-Đạo, phải gia công tham khảo mới tường tri.
Lý hư-vô cần phải nghĩ suy, vạn pháp nhiệm vô-vi cao thượng.
Kìa Phật, Thánh, Tiên, phí bao công tìm cho ra chơn- tướng.
Đoạt lẽ Trời ảnh-hưởng lý đương nhiên,
Ôi! là đời chịu: buồn, lo, khổ, nạn, não-phiền,
Mang nhơn-quả nối chuyền đời này sang kiếp nọ,
Vì vật-dục đẩy đưa con người vào nẻo khó,
Kiếp đọa-đày sao dứt bỏ được trái-chủ oan-gia.
Các con muốn thông-suốt lý tinh-vi thì cần phải sửa tâm cho chính-đính, tập tánh chí-thiện chí-mỹ cho hiệp lẽ điều-hòa, thuận tùng Chơn-Đạo.
Trong cơ mầu-nhiệm của Phật Trời rất nhiều phép lạ, nhưng không bao giờ các con lấy mắt thịt, trí phàm, tai tục mà dò xét thấu lẽ hư-linh đâu?
Các con muốn thấu lẽ hư-linh, trước phải định cái tâm, gìn cái ý, nhắm mắt, bít tai thì có lẽ rõ chút ít.
Trong pháp-nhiệm, nó ẩn-vi sâu kín cao xa dầu lấy nước biển vẽ-vời cũng không suốt lý. Thánh trước Hiền xưa ra công tham khảo, mãn kiếp cùng đời mà vén chưa đặng cái màn bí-mật của Tạo-Hóa đón ngăn. Nhưng cần nhứt là trầm-tư mặc-tưởng, nhập-định tham-thiền thì gặp Chơn-Tiên khẩu truyền cho rõ Đạo, chớ sự mầu-nhiệm tuyệt xảo của Trời, dẫu Phật, Tiên chưa tri nổi.
Các con ngày hôm nay gặp Đạo Thầy hoằng-hóa thì cần lập chí luyện phanh, đem cái bổn tánh hư-linh trở về ngôi vị cũ. Ngày giờ cuối cùng, Thầy vì thương yêu các con phải giáng phàm mà dìu dắt các con trở lại, nhưng các con phải hết lòng, đừng ỷ mình, hay là tưởng Thầy thương yêu rồi biếng nhác. Các con nên biết rằng: dầu Thầy cũng phải chịu dưới quyền luật của Đạo thay.
Các con bị mang xác thịt nặng nề, ngũ-trược chận đè, linh tánh lấp vùi trong đó, Thầy thương yêu các con là Thầy điểm hóa cho các con. Các con phải vùng-vẫy mà nhẩy ra cho khỏi non đè núi chận, chớ đừng ngồi đó hoài đặng chờ Thầy bồng ẵm, không đặng đâu các con!
Đạo là phân thanh khử trược. Hễ nhẹ nhàng trong sạch thì được hiệp nhứt cùng Thầy, còn nặng nề, mê-muội phải chìm xuống đáy. Vậy các con phải luyện cho đắc tánh thuần-dương mới ở vào cảnh thiêng-liêng đặng. Cảnh thiêng-liêng là không khí nhẹ nhàng hơn trăm ngàn lần không khí ở gần các con. Các con còn nhơ bợn một chút cũng không thể ở đặng. Thầy nói sự "di-sơn đảo-hải" là chuyện thường của Tiên, Thánh, nhưng dời non đổi biển thì dễ, chớ đem các con trở lại thì khó lắm. Non biển tuy nặng nề nhưng không có mang thất-tình lục-dục, chớ xác phàm con người, tuy nhỏ nhít, mà lẫn cả sự dục-vọng tà-tâm, nên nặng-nề hơn muôn ngàn hòn núi. Thầy có thương các con cũng không thể ẵm bồng cho đặng. Vậy các con phải dùng phương pháp tu-tánh luyện-mạng, khử trược lưu thanh mà thoát ra khỏi luân-hồi lục-đạo.
Trường Thiên:
Đạo Trời chỉnh-phục linh-căn,
Cầu truyền pháp nhiệm tầm phăng trở về.
Trần hồng biển khổ sông mê,
Chịu mang xác thịt nặng-nề muội-si.
Thiên-cơ khép mở nhiều khi,
Hồi tâm kinh nghiệm vô-vi Đạo mầu.
Pháp-linh có dễ tầm đâu!
Phật, Tiên chọn lựa mà trao người hiền.
Thuộc về khẩu-thọ tâm-truyền,
Biết rồi thì cứ chỉ truyền cho nhau.
Đạo Thầy không luận thấp cao,
Muốn tu thì đặng nhập vào cảnh Tiên.
Thấy đời lầm-lạc đảo-điên,
Nên minh Chơn-Lý Đạo-huyền thông-linh.
Chẳng dùng sắc-tướng âm-thinh,
Giữ tâm thanh-tịnh Đạo minh rõ ràng.
Bí-truyền là pháp minh-quang,
Không bày vẽ đặng rõ-ràng ở đâu!
Làm cho khó hiểu nhiệm mầu,
Nên chi phải chịu lạc vào Bàng-Môn.
Đạo Thầy cốt trọng linh-hồn,
Tin cơ cảm-ứng bảo tồn vạn-linh.
Thi:
Linh-diệu thần-thông Đạo-Pháp truyền,
Truyền lời bí-khuyết độ nhơn-nguyên,
Nguyên lai bổ thể tu dương khí,
Khí tụ đơn thành thượng cửu Thiên.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Ngày 28 tháng 8 - Bính-Tý (1936)
ĐỨC TIN
ĐOẠN LÌA TÌNH ÁI - DỤC TẮC LỬA LÒNG
Thi:
CAO minh vận chuyển Đạo hư-vô,
ĐÀI bửu khai thông Bát-Quái-Đồ,
TIÊN Phật luyện thành nhờ pháp đạo,
ÔNG truyền lại đó rán bồi tô.
Thầy mừng các con.
Thi:
Đời gẫm suy coi tợ bọt bèo,
Nhơn tình say đắm họa liền theo,
Trong trường danh lợi đua tranh mãi,
Thầy rưới thuốc linh cứu ngặt nghèo.
Phú:
Cơ hội đã tuần-huờn Đạo chuyển,
Nguơn cuối cùng huấn luyện dân tâm,
Bấy lâu nay khổ sở lạc lầm,
Giây oan trói muôn năm trong bể khổ!
Ôi! Nền Đạo-đức-tinh thần xiêu-đổ,
Rũi con thuyền tế độ đã chìm lâu,
Nên nhơn sanh vùi dập cuộc bể dâu,
Chịu đau đớn thảm sầu chua chát dạ.
Khổ như thế mà người không cải quá,
Coi giống nòi tợ thịt cá mồi ngon,
Lòng chí chơn thiệt chẳng mấy ai còn,
Nền luân lý đã tiêu mòn hư hoại.
Cuộc biến đổi tang-thương canh cải,
Ôi là đời khôn dại, dại khôn,
Mê-muội trần linh-tánh lấp chôn,
Thầy dòm thấy lòng nôn ra cứu thế.
Bước cho chóng vì bóng vàng đã xế,
Hội Đại-Đồng kẻo trể, bớ con ôi!
Giây oan khiên con rán mở cho rồi,
Mà trở lại vị ngôi an hưởng.
Thi:
Hưởng lộc Trời cho mới vững bền,
Tu hành nóng giận giả đò quên!
Giữ tâm thanh bạch, gìn chơn lý,
Tập luyện tánh "KHÔNG" đắp móng nền.
Trường Thiên:
Móng nền chơn-lý điểm tô,
Noi theo đường Đạo hư-vô của Thầy.
Quả-công âm-chất lập đầy,
Trau-tria hạnh đức hiệp vầy trước sau.
Làm cho trên dưới một màu,
Níu-nương bước mãi cho mau kịp đò.
Con nào có chí siêng lo,
Nhớ lời Thầy đã dặn dò noi theo.
Non cao chớn-chở rán trèo,
Vượt qua biển khổ hiểm-nghèo chớ than.
Đời người nắng dãi mưa chan,
Mảng vui trong cuộc hí-tràng bao nhiêu.
Mấy ai buồn ít vui nhiều,
Vui thân nô-lệ búa riều cũng cam.
Con lo rửa sạch lòng phàm,
Noi chơn lý Đạo mà làm Phật, Tiên.
Giây oan trăm mối cột xiềng,
Lửa lòng bừng cháy hận phiền muội mê.
Các con bị chứng bịnh tê,
Chích-châm cho lắm chẳng hề than ôi!
Thân con như đã chết rồi,
Biết chi đau-đớn tài-bồi lại con?
Ngoài ra những sự mất còn,
Nên hư trối kệ tiêu mòn chả lo.
Như vầy là mối hại to,
Tâm hồn mê-muội làm cho rộn-ràng.
Ngó kia những vật thế gian,
Đều là lửa cháy khô-khan tinh-thần.
Nhứt là nhơn-dục tham-sân,
Ái-tình cháy dậy rần-rần biết bao.
Sắc như sóng dậy ba đào,
Chụp thuyền qua lại, anh hào vùi chôn.
Mùi hoa ngửi mất trí khôn,
Lửa tình không dứt tâm hồn cháy tiêu.
Những điều đáng mến đáng yêu,
Là phương Đạo-đức, là điều thiện-lương.
Thấy đời chìm đắm thảm thương,
Chết chồng đầy ngất trong trường lợi-danh.
Tại ham miếng bã hôi tanh,
Làm cho nảy sự chiến tranh tràn đồng.
Con lo dục tắt lửa lòng,
Mượn bầu tịnh thủy ở trong rưới vào.
Lửa trần đốt cháy biết bao,
Dại thay lửa cháy liệng nhầu bổi vô.
Tu-hành lập chí bồi-tô,
Chống ngăn lục-dục hại đồ báu tiêu.
Bỏ lần những nét hảnh kiêu,
Gìn câu "Kiên-Nhẫn" xuôi chìu mới an.
Nhứt là sửa tánh vững vàng,
Tánh lành, tánh dữ phải tàng biện-phân.
Đạo là Đạo-đức nghĩa nhân,
Cảnh Tiên muốn nhập phải cần "Đức-Tin".
Đức-tin để giúp cho mình,
Đức-tin cứng-cát giữ-gìn đường chơn.
Gặp cơ khảo đảo đâu sờn,
Đức-tin non nớt phản huờn đặng đâu!
Đức-tin như cái đèn dầu,
Đèn mà không cháy tại dầu khô-khan.
Đức-tin như một chiếc thoàn,
Mà không có đáy nước tràn chun lên.
Đức-tin nung chí vững-bền,
Đức-tin là một cái nền Phật, Tiên.
Đức-tin là chiếc pháp thuyền,
Đưa ta cho đến tận miền Bồng Lai.
Đức-tin quyết định chẳng phai,
Người tu chứng quả đức tài minh-quang.
Đức-tin là một cái thang,
Leo lên tận chốn Thiên-Đàng như chơi.
Đức-tin giúp ích cho đời,
Đức-tin có sẵn Phật, Trời độ cho.
Đức-tin như thể cái vò,
Bị hư lủng đáy chứa đồ chảy ra.
Đức-tin con rán theo Cha,
Đức-tin con có thì là thảnh-thơi.
Đức-tin con chớ để rời,
Tin cơ báo ứng, tin lời Thánh-Nhân.
Tin trên có đấng quỉ thần,
Tin thờ tôn-giáo quốc dân hòa-bình.
Tin sao cho thiệt lòng tin,
Tin lòng kính sợ Thần-linh trên đầu.
Tin là sông bắc nên cầu,
Tin rằng Trời, Phật đâu đâu cũng tường.
Tin mà trau luyện Đạo thường,
Làm nên đức hạnh ra gương thiện từ.
Thi:
Từ bi nhắn nhủ một lời chơn,
Chơn thật khuyên nhau chớ giận hờn, (cười...)
Xướng dậy kết dây đoàn thể lại,
Chữ tu nắm chặt chớ lơi sờn.
* * *
Các con nữ phái nghe:
Thi:
Kìa là bóng nguyệt sáng soi đầy,
Đừng để lu lờ áng cụm mây,
Mây áng làm cho Trời Đất tối,
Trăng là Đạo-đức, giận là mây.
* * *
Con nào mến Đạo thiệt thương Thầy,
Nhớ những lời vàng tập tánh hay,
Nam nữ cũng đồng ngôi chín phẩm,
Nương thoàn lướt đến cảnh đài mây.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Ngày 17 tháng 8 - Bính-Tý (1936)
LÝ ĐẠO - PHÉP TU
Thi:
CAO diệu thông linh pháp-chánh-truyền,
ĐÀI vân hội hiệp Thánh, Thần, Tiên,
GIÁO minh lý Đạo hồi tâm tục,
CHỦ phán tuân y đức Thánh Hiền.
Thầy mừng các con.
* * *
Chính mình Thầy đến tận nơi con,
Dạy bảo làm theo đức tánh còn,
Nhưng trẻ vẫn ưa mùi tục lụy,
Khuyên lơn chẳng nổi tội dường non.
Trường Thiên:
Ớ con lớn nhỏ trong trần!
Hồi tâm nghĩ lại cho cần lo tu.
Tội tình nhựt nhiểm ngoạt nhu,
Gỡ ra kẻo mắc tội tù bớ con!
Thuận Thiên thì tánh-mạng còn,
Nghịch Thiên hồn xác tiêu-mòn chẳng chơi!
Nhủ-khuyên con khá chạm lời,
Hồi tâm cải quá Đạo Đời chung lo.
Dầu mà của chất muôn kho,
Ngồi không ăn mãi núi to cũng mòn.
Mỗi người có một điểm son,
Biết tu giồi luyện nó còn tinh-anh.
Nhược bằng biếng-nhác tu hành,
Linh-hồn mờ-ám khó thành Phật, Tiên.
Noi theo gương trước Thánh, Hiền,
Thì Thầy khẩu-thọ tâm-truyền Thiên-cơ.
Luyện-phanh tánh-mạng kịp giờ,
Duy tinh duy nhứt là cơ siêu phàm.
Diệt lần những cái tánh tham,
Tham ăn, tham mặc, tham làm bất lương.
Tham màu, tham sắc, tham hương,
Tham danh lợi cả, tham đường vinh hoa.
Rửa cho sạch bợn lòng tà,
Cẩm-y nhuộm lại màu dà vui chơi.
Người tu phải biết chán đời,
Một niềm theo Đạo, Phật, Trời thoát mê.
Tịnh tâm niệm chuỗi Bồ-Đề,
Ma-Ha tắm gội nặng nề bớt đi.
Nhẹ như bấc, nặng như chì,
Nhẹ nhàng thăng thượng, nặng trì đáy sâu.
Người tu phải chịu dãi-dầu,
Đại-hùng, đại-chí mới hầu vượt qua.
Khổ gay trăm quỉ ngàn ma,
Vững tâm bước tới thì tà-mị dang.
Chống đương cho vững bước đàng,
Công-phu khổ hạnh ba ngàn sáu trăm.
Giữ-gìn đi đứng ngồi nằm,
Pháp-luân tự chuyển dày năm đắc thành.
Biết phương khử-trược lưu-thanh,
Luyện tinh hóa khí, vận hành thần thông.
Tập rèn tâm tánh "Không Không",
Thỉ chung Đạo-đức gát vòng trần ai.
Luyện sao cửu-khiếu phát khai,
Thiên-môn rộng mở Linh-Đài qui-nguyên.
Mới là thành Phật đắc Tiên,
Vô-vi hiệp nhứt Tiên-Thiên diệu mầu.
Tu hành có dễ gì đâu!
Lạc sai luyện đến bạc đầu như không.
Ngày đêm lòng những lo xong,
An-nhiên thanh-tịnh trống-trông giữa Trời.
Nhọc-nhành khuyên chớ buông trôi,
Ngàn năm muôn kiếp phục hồi cung "VI".
Lập thân phải chịu cố-lỳ,
Để cho mầy kéo tao trì mới nhanh.
Vững tâm, tâm-đạo phát sanh,
Tam-huê tụ-đảnh, ngũ-hành triều-nguơn.
Minh-minh yểu-yểu huờn đơn,
Thông Thiên huợt Địa chơn-nhơn hiệp hòa.
Đại-Thừa cắt ái ly gia,
Ly gia chẳng phải bỏ nhà đi đâu.
Tu đừng lậu thuế trốn xâu,
Làm cho cha mẹ buồn rầu vì con.
Lòng đừng sợ-sệt nớt-non,
Làm người thượng-đạt sắc son chí hòa.
Chớ nên ẩn núp núi xa,
Xưa nay các Đạo hiểu ra rất lầm.
Đạo đâu? Đạo ở nơi tâm,
Thì đâu có phải kiếm tầm đâu xa.
Có nhà mà chẳng tưởng nhà,
Gần thương tâm chí chẳng mà thương ai.
Nào là của-cải đền-đài,
Ruộng trâu lợi-lộc sắc-tài đỉnh chung.
Vinh-hoa phú-quí vẫy-vùng,
Những đồ sản vật cộng chung quá nhiều.
Bà con thì biết bao nhiêu,
Vợ xinh, hầu đẹp, con nhiều, cháu đông.
Tuy là mình ở vào trong,
Mà tâm chí vẫn không không có cần.
Ái-ân trước mắt chẳng cần,
Gia tài chẳng mến, không cần lợi-danh.
Gần bùn mà chẳng hôi tanh,
Ở trần mà chẳng nhiễm danh lợi trần.
Có thân chẳng biết gì thân,
Đủ điều trước mắt tâm-thần chẳng xao.
Đặng vầy mới gọi rằng cao,
Ly gia cắt ái lẽ nào phải hơn.
Đạo Đời đi cặp tu-chơn,
Bên nào cũng gắng chớ sờn chí nhân.
Đời lo vẹn, Đạo ân cần,
Trả xong Nhơn-Đạo thì thân cũng thành.
Phận tròn đối với nhơn-sanh,
Ích cho xã hội thi hành chững thôi.
Biết chừng nào rảnh nợ đời ?
Chết đi sống lại chưa rồi rảnh-rang !
Luận sơ "MÊ GIÁC" đôi đàng,
Tâm hồn khôn dại biện tàng phân tri.
Linh-hồn một điểm thanh vi,
Tối linh muôn vật cực kỳ bửu-quang.
Giác Mê tả hữu đôi chàng,
Giác-hồn thanh-bạch tịnh-an thiện-từ.
Mê-hồn chác những điều hư,
Gây ra ác-đức không từ xấu-xa.
Ưa vui ghẹo nguyệt trêu hoa,
Dòm danh khóa lợi lòng tà mê-man.
Dẫn người sái bước lạc đàng,
Làm điều chẳng phải đa-đoan tánh tình.
Thấy gì hơi có đẹp xinh,
Dậy lòng tham chạ dục-tình loạn-luân.
Càng vui thích mãi càng hừng,
Càng tan-tác quá, càng bừng trí lên.
Thiện từ Đạo-đức thì quên,
Loạn tâm lưu-luyến cho nên tội tình.
Hại hao mòn hết nguơn-tinh,
Làm cho hư tán báu linh khí-thần.
Mê-hồn là đứa nịnh trân,
Làm cho bại-hoại triều thần ngửa-nghiêng.
Linh-hồn cho nó đương quyền,
Bốn phương loạn lạc đảo huyền thiết-tha.
Giác-hồn tâm chí điều-hòa,
Muốn khêu Đạo-đức sáng lòa tứ phương.
Ưa vui cửa Phật tâm luơng,
Làm lành có hậu nên gương Thánh Hiền.
Tri thông phép nhiệm Thần Tiên,
Lòng nhân sẵn để làm thuyền cứu nguy.
Trung-cang nghĩa-khí ai bì,
Lại thêm hạnh-đức từ-bi chí thành.
Chẳng màng tục-lụy lợi-danh,
Không ham náo động, không sanh lòng tà.
Không gần thì cũng chẳng xa,
Vô-vi phú-quí vinh-hoa há màng.
Không tư-vị, thích làm đoan,
Tư tâm bản-ngã không mang vào lòng.
Thiệt là sáng-suốt trắng trong,
Trung thành nghĩa vụ lo xong mọi bề.
Tâm hồn có Giác có Me⬼/font>
Giác theo đường chánh, mê về nẻo cong.
Linh-hồn bị án vào trong,
Mê-hồn cám dỗ theo vòng trầm-luân.
Giác-hồn yếu thế khó nưng,
Nên chi phải chịu theo chừng đường quanh.
Phàm-tâm tử, Đạo-tâm sanh,
Tam hồn quét sạch mới thành Phật, Tiên.
An nhàn cảnh động Đào-Nguyên,
Sớm chơi hải ngoại, chiều miền Bồng-Lai.
Ngâm phong vịnh nguyệt nên bài,
Cờ trưa ruợu sớm hưởng hoài bền yên.
Thi:
Yên vui cửa Đạo niệm Di-Đà,
Cờ Thánh rượu Tiên thích chí ta,
Thỉnh-thoảng nghêu-ngao xem cảnh vật,
Mai chiều luyện tánh khỏi làm ma.
Ma, Phật tự người tạo nó ra,
Biết khôn làm Phật, dại làm ma,
Thuận đường Thiên-lý vào Tiên cảnh,
Nhơn-dục khiến sai vướng bẫy tà.
Thập Nhị Liên Phong
Cơ Đạo vận hành độ thế gian,
Phương châm thoát khổ đến Thiên-Đàng,
Nhờ trong phép Đạo tu chơn-tánh,
Đắc quả thành công mặc chí nhàn.
* * *
Chí nhàn tu tịnh thanh cao,
Ẩn thân lánh tiếng ồn-ào đua tranh,
Vui vì nước biếc non xanh,
Một bầu nhựt nguyệt luyện thành đơn-nguơn.
* * *
Nguơn-thần, nguơn-khí với nguơn-tinh,
Hiệp lại lâu lâu nó tượng hình, (cười..cười..)
Phá cửa Linh-Đài vào bái Phật,
Ngũ hành hiệp nhứt rất mầu linh.
* * *
Linh-hồn mê-muội trầm-luân,
Ngày nay mặc sức gội nhuần đức-ân,
Vậy thì chuyên chú tu thân,
Huyền-quang nhứt khiếu xuất thần du Tiên.
* * *
Tiên-Thiên cướp đặng mới nên cho,
Tâm tức nương nhau thần khí mò,
Tới lửa lui bùa diên-hống kết, (1)
Biết phương bắt chảo với xây lò.
* * *
Lò Trời un-đúc chúng-sanh,
Ban cho một điểm tánh lành linh thông,
Giáng phàm lập quả bồi công,
Mảng mê mồi tục mà không trở về.
* * *
Về cảnh Tiên-bang thú vị nhiều,
Thanh-nhàn xinh đẹp biết bao nhiêu,
Hương bay gió phất riu-riu mát,
Náo nhiệt trần-ai chốn thị triều.
* * *
Thị-triều nặng với Đạo Đời,
Càng vui đắm tục tơi bời điểm linh,
Càng mê-mệt với cảnh tình,
Thì càng khổ chí lụy mình bến mê.
* * *
Mê giác hai đường liệu lấy con!
Đạo-tâm chức vụ trẻ lo tròn,
Đường quanh ngựa chạy coi chừng vấp,
Nhớ chữ từ tâm phận cúi-lòn.
* * *
Cúi-lòn khỏi lúc gian-nguy,
Gặp cơ khảo-đảo chịu lỳ cho qua,
Níu-nương trên dưới thuận-hòa,
Nhịn nhường tránh khỏi rầy-rà nghịch nhau.
* * *
Nghịch nhau không lẽ xẻ banh Thầy ?
Dạy bảo con hành Đạo-đức đây,
Kệ sớm kinh khuya lòng tưởng Đạo,
Thoát thai thần hóa đến cung mây.
* * *
Mây lành năm thức đỡ chơn,
Ngao du tiệp-thủy đăng-sơn thỏa lòng,
Vui cùng gió mát trăng trong,
Phú thi khiển hứng thần-thông đủ nghề.
Thầy ban đặc ân cho các con. Thầy thăng.
Chú thích:
(1) Tấn dương hỏa, thối âm phù
Ngày 11 tháng 8 - Bính-Tý (1936)
LUYỆN KỶ TU THÂN
Thi:
CAO ngôi Thái-Cực chưởng quần Tiên,
ĐÀI thượng Linh-Tiêu Đạo-lý truyền,
GIÁO hóa âm dương thuần-túy nhứt,
CHỦ tâm định-tịnh huệ thông Thiên.
Thầy mừng các con.
Thi Bài:
Tiên-Thiên Đạo cao thâm huyền bí,
Qui ngũ tam tu kỷ luyện đơn,
Giác-mê cảnh tỉnh mộng hồn,
Tầm cơ siêu-thoát tinh-thần thiêng-liêng.
Tam-Thanh vốn chơn-truyền tâm-pháp,
Tam-Giáo qui phù hạp thiên-nhiên,
Nghịch hành phản-bổn huờn-nguyên,
Thuận hành sa-đọa hạ miền trầm luân.
Này con Đại-Đạo trùng hưng!
Các con nên hiểu rằng: lúc KHỔNG-TỬ dạy về Nhơn-Đạo thời chưa thông Thiên-Đạo, còn dùng tửu nhục. Đến ngộ Đạo cùng HẠNG-THÁC thì trì trai thủ giới, nên mới có câu:
"Thiên sanh Khổng-Tử chơn kỳ trí,
Tánh mạng công phu thỉ bất minh,
Vãng trần lộ ngộ Hạng-Thác vi sư,
Lão tác đồ-ty thiếu vi tôn."
cùng câu: "Trai minh thạnh phục yếu dục dưỡng tinh". Sau người Châu-Tử chẳng thông thời vụ, học Trung-Dung chưa rồi mà luận đến Thiên-Đạo lại chê LÃO-TỬ, KHỔNG-TỬ rằng luận thuyết hư-vô tịch-diệt là dị-đoan. Có phải ấy là ếch nằm đáy giếng xem trời nhỏ chăng?
Từ Trung-Nguơn đến giờ, cũng có kẻ tu theo Đạo "LÃO" phân-minh lý-thuyết ấy, song chẳng chi chứng rõ bằng Thầy cầm luật công-bình mà phán-đoán.
* * *
GIẢI VỀ "LUYỆN KỶ TU THÂN"
LUYỆN-KỶ là lập cái tâm cho dứt sự thương yêu, trìu mến thê-thiếp, tử-tôn cùng ham muốn mọi sự ở thế-gian.
Hễ lập đặng như thế thời cái nhơn-tâm dứt rồi Đạo- tâm mới sanh. Người có chí-thành chí-kỉnh, tầm sư học Đạo, một lòng cung kỉnh, chẳng vong "mộc bổn thủy nguyên", thiệt hành Thiên-Đạo thì sẽ đến bực huờn-hư.
Huờn-hư là yên tịnh thân tâm. Tịnh cho thuần-thục tức là luyện cho cái khí Hậu-Thiên tiếp Tiên-Thiên hiệp với tánh Phật, Tiên cùng hư-vô chi-khí. Hễ huờn-hư là tự nhiên Đạo chuyển (chớ huờn-hư rồi còn chi mà luyện). Bởi vậy có câu: "Đạo bất khả tu dụ l?iả".
Người tu luyện để cái TÂM-KHÔNG mà tưởng Thầy, chẳng nhớ việc qua rồi, không lo sự hiện tại, đừng tưởng sự sắp đến. Tai nghe giọng phù-trầm, lảnh-lót thanh-tao mà lòng không vọng-động. Mắt thấy việc lạ-lùng, xinh-đẹp, tốt-tươi mà ý chẳng say-mê. Đối với cảnh chỉ tâm không, cũng như con hát lên hí trường làm vua, làm quan, trải qua cảnh khổ, hưởng đến hồi vui, lúc phải hỉ, nộ; khi thời ái, ố; song chẳng động lòng mê-đắm, vì vẫn biết rằng: bao nhiêu sự làm ấy toàn là chẳng thiệt, chỉ giả dối, pha trò trong một thời gian ngắn-ngủi đó mà thôi.
Hỡi các con! Các con phải bền chí, rắn gan, mà sớm tối tu-tâm luyện-tánh. Trên có Thầy ban ơn bố hóa gìn giữ cho các con, dưới các con hãy bền lòng, chịu những sự khảo-đảo, khổ thân mà đền bồi oan-trái. Sự thành Đạo, tuy mau hay chậm, do Thầy bố-hóa, nhưng cũng phải có các con. Các con cứ lo phận sự vuông tròn. Phàm hễ qui đặng tam-bửu ngũ-hành thì đắc thành Tiên, Phật; còn tán tam-bửu ngũ-hành thì đã đành làm ma làm quỉ.
Đời của các con có hai đường: siêu, đọa. Người biết giác-tánh tu-chơn thì thành chánh-quả, còn kẻ mê-tâm gây họa tất xa chỗ bổn-nguyên.
Thi:
Luyện dứt tâm-phàm hóa Thánh-tâm,
Biết minh chơn-lý Đạo cao tầm,
Mến đường chánh-giác về nơi cũ,
Tự-toại an-vui thú-vị trầm.
QUI TAM-BỬU NGŨ-HÀNH
Các con có biết vì tại sao mà phải "qui tam-bửu ngũ- hành"?
Như con người lo-lắng vọng-tưởng điều này sự nọ thì hao THẦN (linh-hồn); còn muốn ham, mơ-mộng phú-quí vinh-hoa thì tán KHÍ; bằng say-đắm mê-sa tình-trường dục-hải thì tổn TINH.
Hễ tam-bửu hao-mòn thì nào khác chi cái ngọn đèn tàn, dầu hao, tim lụn, leo-lét canh khuya, khi mờ, khi tỏ, tất nhiên một hồi phải tắt ngay. Vã như tam-bửu hư-hoại thì tự-nhiên ngũ-hành, ngũ-tạng cũng phải xiêu-bè suy-nhược theo nhau.
Nguyên con người trong buổi thiếu thời, còn giữ tánh thiên-nhiên thì đâu biết lo rầu, buồn giận. Mãi đến lớn lên, lần lần nhiễm lấy mùi trần, rồi ham giàu, ham sang mới rắp-ranh trù nghĩ kế nọ mưu kia, phương này, chước khác, mà báo hại, phải hao cái CHƠN-TÂM (Tâm ấy thuộc Hỏa).
Đến khi mưu kế định rồi, lại còn phấn đấu tranh đua để đạt sao cho kỳ được mục-đích mới nghe, thì báo hại tới phải hao CAN (Can ấy thuộc Mộc).
Bây giờ mục-đích đạt xong, đã sang, đã giàu thì lại đâm ra muốn vui xác thịt, nên bể-dục sóng-tình tha hồ đắm-đuối ngày đêm, báo hại thêm ra hao THẬN (Thận ấy thuộc Thủy).
Rồi đã vui sắc-dục thì phải khoái ngọt bùi, nên lại kiếm tầm hải-vị sơn-trân, sát mạng thượng cầm, hạ thú để làm cho khoái đã sự thèm ngon của miệng lưỡi, mà lắm khi chất độc, món khắc cũng chẳng hề từ, thành ra "bịnh tùng khẩu nhập" mà báo hại cho phải hao TỲ (Tỳ ấy thuộc về Thổ).
Lại khi ăn uống no say, ngon khoái rồi thì bị những vật thực bằng huyết nhục kia nó mới phát sanh ra tánh người táo-bạo, hung-hăng, ganh-gỗ, độc-ác và háo-thắng, tự-phụ, máu nóng ham sân mà báo hại thêm còn hao PHẾ (Phế ấy thuộc Kim).
Đó là ngũ-hành đã suy mà ngũ-tạng đã nhược.
Vậy nên người tu phải không ham giàu, không ham sang, không ham ngon, không ham dục, không, không, không hết ráo, thế mới thành công.
Thi:
Làm người đồng đứng bực Tam-Tài
Giữ vẹn tinh anh Gái với Trai
Luyện Đạo phân-thanh cùng khử-trược
Thành-công đắc-quả lánh trần-ai.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Mùng 1 tháng 10 - Bính Tý (1936)
TẦM TU CHƠN-ĐẠO
Thi:
GIÁC ngộ Thiên-kinh phản cựu-ngôi,
MINH-tâm Đạo phát thoát luân-hồi,
KIM-thân luyện đắc trường-sanh bửu,
TIÊN-cảnh an vui thú vị rồi.
Cười, cười . . . GIÁC-MINH KIM-TIÊN chào chư hiền Đạo-tâm nam nữ đẳng đẳng. Giờ nay ngã lâm đàn báo tin cho chư Đạo-tâm hay trước đặng nghiêm tịnh đàn tiền, kiến giá CHÍ-TÔN, có chư Tiên hộ vệ. Ngã chào. Ngã lui.
* * *
Thầy các con. Thầy mừng các con.
Thi:
NGỌC bửu chiêu dương Đạo-đức hưng,
HOÀNG-Thiên thấy vậy rất vui mừng,
THƯỢNG căn gặp đặng tràng-phan rước,
ĐẾ vị an nơi mặc lẫy lừng.
Thầy đại hỉ, đại xả, các con tịnh tâm an tọa.
Thi Bài:
Nguồn Đạo-đức gia công nghiên cứu,
Pháp chơn truyền chí bửu Phật, Tiên,
Chúng-sanh nương lấy làm thuyền,
Vượt qua biển khổ vào miền Bồng-Lai.
Luyện cho đắc Thánh-Thai Phật-tử,
Lập chí cao quân-tử tu hành,
Để lòng yên lặng bạch thanh,
Pháp-luân tự chuyển vận hành ngũ quan.
Phục chơn-dương Khôn-Càn định vị,
Đem trở về nguyên thỉ linh-căn,
Đạo càng ngày một tiến tăng,
Kiết đơn hiệp khí thượng tằng hư vô.
Thi:
Vô-vi Đạo-pháp ẩn không bày,
Nay đến thời kỳ mới hoát khai,
Tam-Giáo thất vì siêu-việt quá,
Người tầm chẳng thấu hiểu lầm sai.
LUYỆN ĐẠO TU HÀNH
Đây Thầy minh về chương "LUYỆN ĐẠO" cho tất cả chúng-sanh tường thức tu hành đặng thoát kiếp tử sanh cho kịp cơ tấn hoá.
Đại-Đạo hoằng khai trải chín niên dư, mối chơn-truyền chưa phải thời kỳ phát lộ, là vì đương buổi phôi-khai phổ độ, để lần lần cho người tầm đến chỗ cao siêu.
Ngày nay Đạo đã trải qua thời kỳ phổ-thông mà bước đến thời kỳ giáo-hoá, nên chi Thầy mới giáng cho một pho kinh ĐẠI-THỪA TÂM-PHÁP để cho các con tầm lối băng về. Noi theo giáo lý của Thầy đây chắc là thoát khỏi bến mê, bể khổ.
Các con phần nhiều tu có tu, mà hành không chịu hành. Tu là sao? Hành cách nào? Chữ Tu Hành các con hằng nói mà các con không chịu tham khảo cho ra cái nguyên lý của chữ "Tu Hành", rồi tu mãi không thấy ấn chứng (chẳng thành) thì các con lại ố Đạo của Thầy mà theo kẻ manh sư, lạc vào bàng môn ngoại Đạo.
Thầy chỉ sơ cho các con tường chỗ Đạo:
Đạo Thầy là vô-vi thì dẫu cho sự chi cũng dùng vô-vi mà chuyển hóa. Cái tâm-pháp bí-truyền của Tam-Giáo Thánh-Nhơn xưa kia với cái tâm-pháp bí-truyền ngày hôm nay cũng một, nhưng cái nền tảng giáo lý xưa kia rất cao siêu, tuyệt diệu, để khẩu truyền tâm thọ cho những người thượng-đạt, kẻ hiền nhân, chớ những hạng trung-trí, hạ-ngu có dễ gì truy tầm cơ nguyên của Đạo. Lần lần trải qua trong mấy thời kỳ, nhơn tâm biến đổi, xu hướng về lối vật chất phế bỏ tinh-thần, nên chi cái tâm-pháp lu lần là tại người tầm không thấu nỗi.
Ngày nay Thầy thấy ba nền giáo-lý đã xiêu bè, xiêu đổ, làm cho nhơn-sanh không biết đâu mà tế độ đặng trông vào. Thầy mới giáng thế khai Chơn-Đạo đặng trao mối chuẩn-thằng tâm-pháp cho các con nào có thiện-duyên, lo tu luyện mà thoát miền trần thế.
Thi:
Đạo mầu nguyên tố ở đâu ra?
CHIÊU xuất chơn-linh đến Bửu-Tòa,
Học pháp huyền-cơ truyền lại thế,
Luyện thành Tiên, Phật, dứt tiêu ma.
Phú:
Đạo chuyển độ hồng trần phát hóa, tỉnh giấc nồng, đời mau khá níu-nương theo.
Thầy nhìn con lụy đổ chua xót bỡi con nghèo,
Nên chi phải lựa thế, lựa dèo, bảo tồn cho đời an trị,
Nay đã đến thời kỳ Phật, Thánh, Tiên lập vị,
Hội Long Hoa là ngày phán-đoán, ai mưu tà, chước quỉ phải bị đọa-đày.
Bảng Phong-Thần trước mắt, cuộc dữ-dằn là cuối buổi tương-lai,
Thầy mới đến hoằng-khai chơn-truyền Đại-Đạo.
Thi:
Đạo-đức ngày nay đã lố mòi,
Đạo mầu rực rỡ tợ trăng soi,
Đạo minh chơn lý đời thông suốt,
Đạo pháp luyện thành rất hiếm hoi.
Thi Bài:
Hiếm hoi cuộc thế xây vần,
Long-Hoa đăng bảng Phong-Thần chẳng lâu.
Thấy đời có biết gì đâu,
Không lo luyện tập Đạo mầu thoát mê.
Cả mang tội-lỗi nặng nề,
Trong vòng tứ khổ khó bề lánh tai.
Cuộc trần nhiều lối chông gai,
Trời hôm bước khéo lạc-loài mạng nguy.
Thầy thương mở lượng từ bi,
Giáng trần khai hóa Tam-Kỳ hạ nguơn.
Nay là đúng cuộc tuần huờn,
Phật, Tiên giáng thế ra ơn độ đời.
Chấn hưng giáo-lý Đạo Trời,
Hầu toan đánh thức người đời tỉnh say.
Bảo tồn cho cuộc tương lai,
Dựng gầy nền tảng Cao-Đài Tiên-Thiên.
Luận qua bí-pháp tâm-truyền,
Phương châm tu luyện mối-giềng xưa nay.
Đạo là một cái gia tài,
Lưu-truyền giữ mãi tháng ngày không hư.
Biết tầm Đạo, chọn Minh-Sư,
Thọ lời bí khuyết cũng như thành rồi.
Phương chi thoát khỏi luân-hồi,
Chỉ nhờ pháp nhiệm phủi rồi nghiệp duyên.
Muốn làm nên Phật, Thánh, Tiên,
Làm chi cũng học pháp-huyền luyện đơn.
Luyện thành một vị Chơn-Nhơn,
Muôn năm bền vững chẳng sờn hư tan.
Các con phải hiểu, phải tàng,
Đạo Thầy u-ẩn, minh-quang tâm-điền.
Con nào hữu kiếp thiện-duyên,
Gặp Minh-Sư chuyển diệu-huyền nơi tâm.
Tu đừng luận phải nhiều năm,
Có duyên đặng ngộ Đạo ngầm chuyển luân.
Tâm thần phát hiện kết ngưng,
Võ văn chế luyện có chừng thì thôi.
Công phu bốn buổi xong rồi,
Để giờ tu tịnh đắp bồi linh-căn.
Xử tròn nợ thế Đạo hằng,
Làm ăn cứ việc làm ăn như thường.
Nhưng mà đừng có vấn-vương,
Đừng đem vào dạ, đừng thương ghét người.
Đạo càng cao, đức càng tươi,
Dầu ai nhục mạ cũng cười làm vui.
Trái-oan con gỡ cho xuôi,
Nhơn-tình qua lại, tới lui, bớt lần.
Một mình ẩn dạng tu thân,
Ngồi thiền định tưởng xuất thần cho quen.
Đừng cho ngoại vật lấn xen,
Tâm-hồn mê-muội như đèn lụn tim.
Ngồi nằm kiếm chỗ im-lìm,
Lúc mê, giấc ngủ, lim-dim xuất hồn.
Nhưng mà tập đặng lớn khôn,
Mới nên phá cửa Thiên-Môn ra ngoài.
Còn non yếu ớt lạc-loài,
Sợ e ma quỉ cản đài giáng thăng.
Thi:
Thăng bình cơ hội rán đua tranh,
Lập vị nhờ chưng luyện Đạo thành,
Thành chánh-quả cao an Thánh-thể,
Tầm trong bí-khuyết đặng tu hành.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
CHƯƠNG II
HÌNH-NHI THƯỢNG-HỌC
ĐẠI-THỪA TÂM-PHÁP
_____________
Mùng 3 tháng 8 - Bính-Tý (1936)
TIÊN-THIÊN CƠ-NGẪU
Thi:
ĐẠI-Thừa Chơn-Giáo chuyển Càn-Khôn,
ĐỨC hoá vạn-linh độ xác hồn,
CAO-thượng tâm-truyền cơ xuất thế,
TIÊN-Thiên phản bổn vĩnh an tồn.
Thầy mừng chư đệ-tử kim đàn nam nữ đẳng đẳng. Thầy ban ơn lành cho các con.
Thi:
ĐẠI hóa âm dương sản Đạo mầu,
THỪA ân đức cả độ năm châu,
CHƠN truyền tâm-pháp tu đơn tánh,
GIÁO dục cơ quan pháp nhiệm mầu.
Thầy giải về hai chữ: CƠ NGẪU.
CƠ là chiếc hay lẽ, còn NGẪU là đôi hay cặp. Đối với Vũ-Trụ thì CƠ là Tiên-Thiên, thuộc dương, còn NGẪU là Hậu-Thiên, thuộc âm. Vậy thì Thái-Cực là CƠ, âm-dương là NGẪU. Còn đối với người thì phần hồn là Cơ còn phần xác là Ngẫu, là vì phần hồn là nhứt điểm linh-quang của ngôi Thái-Cực, còn phần xác lại do bởi âm dương cấu tạo mà hóa sanh, cho nên Cơ Ngẫu phải hợp thành mới luyện phanh trở nên Tiên, Thánh, Phật đặng.
Thầy giờ hôm nay, vì lòng từ-bi, thương xót cả sanh linh nên phải hạ mình ban truyền Đạo-đức.
Thầy lấy làm thương tiếc cho đoàn sanh chúng đã gặp thời kỳ Đại-Đạo chấn hưng phục nhứt, phổ thông chơn truyền độ rỗi nguyên-căn phục hồi cựu vị; nhưng phần nhiều vì bị mang xác thịt nặng nề, khí Hậu-Thiên đè ép làm cho lu-lờ điểm tánh chí thiện, chí linh, rồi chỉ quanh-quẩn theo trần-thế, luyến-ái dục-tình, mê say mùi đỉnh chung lợi lộc mà xa con đường "Trung Tâm Đạo" . Cứ mãi đeo mang lấy thói thấp thường, chuộng cái hư danh giả trá, toan lòng độc ác, chém giết lẫn nhau vì phân màu da, nước tóc, chỗ ở, miếng ăn, chớ không đem bổn phận làm người đối với nhơn quần xã hội. Càng ngày càng xa đường Thiên-lý, bỏ hết sự tự-nhiên thanh-tịnh vô-vi mà mãi đắm say về thực tế. Điểm linh-hồn phải chịu dưới quyền hành của nhơn-dục khiến sai làm cho càng ngày càng tối-tăm mù-mịt thì mong chi thoát khỏi trầm-luân nơi biển khổ được.
Vậy chư đệ-tử về phái bí-pháp tâm-truyền Tiên-Thiên Đại-Đạo phải vâng Thiên-mạng hành-chánh cho hợp lý Thiên-nhiên.
* * *
Thầy giải sơ về phần "TRỪU-TƯỢNG VÔ-VI"
Trước khi chưa phân định Âm Dương, Càn-Khôn Thế Giới thì trong thời kỳ ấy, khí hồng-mông đương hỗn-độn mờ mờ, mịt-mịt, lặng-lẽ vô-vi, thanh trược hỗn hiệp, thì kêu là: Tiên-Thiên hư vô chi khí.
Trong khí hư-vô ấy lại phát hiện ra một vòng đại quang minh là Thái-Cực, đó kêu rằng Vô-Cực một vòng O sanh Thái-Cực (không mà có).
Rồi vòng hư vô ấy nó lại có một điểm trung tâm O thì Thái-Cực là Cơ, mà hễ Cơ là lẽ. Đã lẽ thì làm sao mà hóa sanh để tạo thành Càn-Khôn Thế-Giới, vạn vật muôn loài, côn-trùng thảo-mộc, thủy tú sơn xuyên, nên cái lý đơn nhứt ấy mới phóng ra một vầng quang minh phân định: Khí khinh thanh thượng phù giả vi Thiên, khí trọng trược ngưng giáng giả vi Địa. Khí nhẹ nhàng bay bổng lên, làm ngôi Càn ( ). Càn là Thiên tức là: Nhứt dương chi khí. Khí nặng nề ngưng giáng xuống làm Khôn ( ). Khôn là Địa, nhứt âm chi khí.
Cái năng lực mạnh bạo của khí âm dương vần-vần quanh lộn, lăn tròn, đun đẩy nhau trong khoảng không gian. Khí dương động, âm tịnh. Âm thì đứng một chỗ, còn dương thì bao quát Càn-Khôn.
Đức Thái-Cực mới vận hành khí chơn-dương hiệp cùng khí âm (âm dương là Cơ với Ngẫu). Khí âm dương hỗn hiệp nhau, đụng chạm mà hóa-hóa sanh-sanh là do trong chỗ điều-hòa, tương-ứng tương-cảm, huân-chưng đầm-ấm mới tạo thành nghìn giống muôn vẻ, thiên hình vạn trạng. Khí âm dương bắt đầu sanh hóa ra muôn loài vạn vật, muôn loài vạn vật cứ hóa sanh mãi mãi, đời nọ sang đời kia không bao giờ ngưng nghỉ. Đó là một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật, nhưng vạn vật cũng phải quày đầu về một, là vì "Nhứt bổn tán vạn thù, vạn thù qui nhứt bổn".
Cơ siêu phàm nhập Thánh là lẽ tự-nhiên, pháp nhiệm, nó luống vận hành châu lưu trong Càn-Khôn Thế Giới mà dưỡng dục muôn loài, bảo tồn vạn vật.
Cái lý Thái-Cực là lý đơn-nhứt, cầm quyền sanh-hóa thống chưởng Càn-Khôn.
Âm dương là cái pháp nhiệm-mầu, sâu kín Thiên-cơ. Có câu: "Nhứt âm nhứt dương chi vi Đạo". Âm dương ấy hiệp nhứt thì phát khởi Càn-Khôn. Khí âm cướp một phần chơn dương của ngôi Kiền, Kiền mới hóa ra Ly (Ly là Thái Dương: mặt Nhựt). Khôn đặng chơn dương biến thành Khảm (khảm là thái Âm: mặt Nguyệt).
Trong âm ấy có lẫn lộn một phần chơn dương mới lững đững thăng lên là nhờ huyền-khí. Kiền mất một hào dương mà lẫn lộn phần âm vào nên bị khí âm nó trầm xuống thành Càn lìa ngôi mà Khôn thất vị. Tiên-Thiên mới biến Hậu Thiên. Hà Đồ phải hóa Lạc Thơ, gọi rằng "Tứ cá âm dương cọng thành Bát-Quái". Âm dương ấy có khi động khi tịnh, lúc giáng hồi thăng mà dưỡng dục muôn loài vạn vật.
Cái khí Tiên-Thiên sanh hóa là nhờ khí hạo-nhiên nuôi nấng nó. Về phần vô hình, lấy mắt phàm, trí tục mà so sánh, đo lường, dòm ngó sao cho thấu đáo.
Tiên-Thiên Cơ-Ngẫu thuộc về thanh khí nhẹ nhàng, như cỏ cây hoa quả.
Những loài hoa quả, thảo mộc, lấy hột mà gieo thì mọc lên. Nó nhờ cái khí chất Tiên-Thiên, Hậu-Thiên của nó hấp thụ trong không khí mà càng ngày càng cao lớn, trổ trái đơm hoa.
Vậy cái pháp Đạo của tâm-truyền cũng dùng âm dương mà tạo thành Phật-tử. Còn hoa quả, thảo mộc lại hấp thụ khí âm dương của Trời Đất mà sống mãi, nên người tu hành phải cần ăn thảo mộc cho có khí chất nhẹ-nhàng, chớ nếu ăn mặn, bị cơ-ngẫu Hậu-Thiên (đực cái lấy nhau) nên do ở khí chất nặng nề, trọng trược hóa sanh ra thì người tu-hành dùng nó ắt luyện Đạo bị âm-khí Hậu-Thiên mà chơn-thần mờ-ám, không xuất ra khỏi thân, các đệ-tử khá biết à!
Thi:
Tiên-Thiên Cơ-Ngẫu pháp tâm-truyền,
Chỉ giáo diệu-huyền hóa Thánh, Tiên,
Sanh sản Thánh, phàm đồng nhứt lý,
Luyện tu LY đủ phản ngôi KIỀN.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Mùng 5 tháng 8 - Bính Tý (1936)
HẬU-THIÊN CƠ-NGẪU
Thi:
CAO siêu huyền-bí Đạo hư-vô,
ĐÀI điện Linh-Tiêu pháp nhiệm đồ,
NGỌC trắng Ngân-Hà châu chiếu tủa,
ĐẾ hoàng tá thế Đạo huyền tô.
Nghe Thầy minh "CƠ-NGẪU HẬU-THIÊN".
Luật Trời là vô-vi, nhưng cũng phải có hai cái năng lực mạnh bạo phi thường là: "nhứt âm, nhứt dương" mới tạo dựng nên Càn-Khôn Võ-Trụ; còn Đất thì lại "cang nhu"; người thì có "nam nữ". Ấy là hai cái năng lực tương phản tương đối mà hóa-hóa sanh-sanh.
Tiên-Thiên Cơ-Ngẫu thuộc về "trạng-thái vô-vi", còn Hậu-Thiên Cơ-Ngẫu thuộc về "cụ-thể hữu-hình" (vật-chất).
Trời, Đất, người, vật cũng có hai cái cơ thể: âm dương.
Âm là trược, dương là thanh. Thanh xung lên làm Trời, trược giáng xuống làm Đất, còn giữa thì âm dương lộn lạo mà làm người. Những người khôn-ngoan, sáng-suốt là nhờ bẩm chơn-dương nhiều hơn, còn người mê-muội, ngu hèn là thọ cả phần âm.
Vã như hột giống các ngươi gieo xuống thì nứt mộng mọc lên cũng phân chia ra hai lá, đó là âm dương rõ ràng. Cái sự hiển nhiên của cơ Tạo-Hóa là dẫu nòi giống nào tất cũng có chia ra âm dương mới sanh sản đời nọ sang đời kia mà không bao giờ ngưng dứt.
Trời trong, Đất đục, nữ trược, nam thanh, cái trong ấy cũng do chỗ đục mà ra, đục do trong mà ngưng giáng. Có thanh ấy mới có trược, có trược ấy mới ra thanh.
Sự sanh sản của loài người là do nơi tinh khí mà ra. Hễ nguơn-tinh tẩu lậu ra ngoài Hậu-Thiên gặp âm-tinh ngưng kết lại thì thành hình. Đầy đủ ngày giờ thì sản xuất, ấy là Phàm-Thai. Còn nguơn-tinh con người biết tu luyện mà vận hành nghịch chuyển trở lên cho hiệp cùng thần, khí thì cấu kết thành Thánh-Thai. Vậy phàm, Thánh khác xa mà chỉ có một chút đó thôi.
Trong thai, noãn, thấp, hóa (là tứ sanh, các loài bò, bay, máy, cựa) cũng có cơ-ngẫu. Cả muôn loài vạn vật vì cái tâm linh mê dục mà sanh sản nối tiếp nhau. Âm dương cũng vì có cái tính dục tương đối, tương phản mà điều hòa khí chất đầm ấm, huân chưng mới tạo sanh ra muôn loài vạn vật. Vậy thì cái sự sanh đó cũng do nơi hòa mà có. Thế nên Đạo của Trời, Đất cũng bất ngoại hai chữ "TRUNG-HÒA". Có hòa mới có hiệp, có hiệp mới có thương yêu trìu mến nhau mà phát sanh ra cái dục tình.
Vậy mỗi giống nòi nào cũng thảy vì chỗ dục. Ai cũng có một cái tánh dục tình, luyến ái, tại sao?
Tại phu phụ dẫy lòng dâm-dục mới ăn ở nhau, thương yêu nhau rồi cái dâm-tinh, dâm-huyết của hai đàng bèn hiệp lại mà cấu tạo thành một cái xác thân. Lâu ngày đầy đủ liền sanh đẻ ra thì có phải cái xác thân ấy đã do ở chỗ dâm-dục mà sanh ra chăng? Vì thế cái linh-hồn phải bị mang một mảnh hình hài toàn là thân dục. Bảo sao loài người không say đắm về tình đời mà ham ngon chuộng lạ, muốn khoái, ưa vui, mê xinh, thích đẹp rồi chôn nhận cái linh-hồn phải bị giam hãm, phải luống miệt-mài trong cái khám trần ngục khổ vậy.
Bỡi vậy con người ở đời mà ví biết hồi tỉnh thiện tâm, tuyệt dứt lòng phàm, đoạn ngăn tình ái, để lo tu bổ cái nguơn-thần cho sáng suốt, gìn giữ cái nguơn-tinh cho đủ đầy, mà dụng công phu phanh-luyện cho hợp với lẽ vô-vi thanh-tịnh thì có lo gì mà chẳng thoát ngoài cõi tục, sông mê.
Người mà dứt đặng lòng dâm-dục say-mê, tánh kiêu ngạo độc ác, không đắm nhiễm tình đời thì là bực Thần, Tiên tại thế đó rồi.
Nhưng sự làm lành, làm phải thiệt rất khó thay! Ai cũng muốn làm lành, mà lành làm khó được; ai cũng toan bỏ dữ, mà dữ bỏ không rồi. Làm lành đến già đời, lành còn không đủ, làm dữ trong chốc lát, dữ đã quá nhiều.
Vậy Thầy ước mong cho các con phải cố gắng làm lành. Có câu: "Tu là cội phước, tình là dây oan". Các con tu hành phải cố gắng mới thành công.
Thi Bài:
Trong Trời Đất, Đạo mầu quí nhứt,
Làm nấc thanh thoát vực ái hà,
Châu vi khắp cõi ta bà,
Ban truyền chơn-lý điều-hòa Càn-Khôn.
Đạo độ rỗi linh-hồn thoát khổ,
Nương chơn-truyền tấn bộ đường Tu,
Dầu cho những kẻ ngu phu,
Biết đường tầm Đạo thiên thu hưởng nhàn.
Dòm trong cuộc thế gian nhân loại,
Gây tội tình sao khỏi họa ương,
Thấy vầy Thầy động lòng thương,
Ban hành Chánh-Giáo mở đường thiện duyên.
Các con mau sẵn thuyền trở lại,
Lánh cơ Trời biến cải tương lai,
Tránh đâu cho khỏi họa tai,
Trọn đời tín ngưỡng Cao-Đài độ cho.
Người cố gắng lòng lo tu luyện,
Hễ pháp-luân thường chuyển Đạo khai,
Điều hòa ngưng kết Thánh-thai,
Sớm khuya luyện tập giồi mài bửu linh.
Bổ khuyết lấy "Tâm-Kinh vô-tự",
Thanh tịnh đừng ưu lự loạn tâm,
Huyền cơ đoạt thấu cao thâm,
Tập tành hạnh đức lỗi-lầm chớ mang.
Muốn cho đặng mở-mang trí-hoá,
Thì để tâm khám phá cơ Trời,
Suốt thông máy nhiệm đời đời,
Dinh hư tiêu trưởng cuộc đời hiển nhiên.
Lời bí khuyết tâm-truyền ẩn giấu,
Kẻ hữu duyên mới thấu cội nguồn,
Pháp mầu đóng chặt vào khuôn,
Dòm xem những mấy tấn tuồng thế gian.
Người mắc phải đa mang lắm chuyện,
Linh-hồn không huấn luyện cho thành,
Lọc lừa không khí khinh thanh,
Làm cho nảy tược đơm cành lớn khôn.
Bấy lâu nay linh-hồn chôn chặt,
Khí hậu đè phải mắc si-mê,
Lóng nghe những tiếng Thần-kê,
Tỉnh tâm quày bước trở về cựu ngôi.
Muốn đoạn dứt cho rồi oan nghiệp,
Đặng Chơn-Thần trực tiếp thiêng-liêng,
Làm cho thấu đáo mối giềng,
Thì tua tin lấy thần-quyền giúp cho.
Đặng thoát khỏi cái lò sanh-hóa,
Cầu Chơn-Sư mở khóa huyền-vi,
Vén màn bí-mật thông tri,
Càn-Khôn một túi thiếu gì pháp-linh.
Trong Đạo-Thơ Đơn-Kinh còn đó,
Chơn-truyền đâu dám tỏ bày ra,
Chỉ là chút đỉnh sơ qua,
Thiên-cơ đâu dám bày ra rõ ràng.
Làm Tiên, Phật những hàng căn kiếp,
Chơn-sư truyền hòa-hiệp âm dương,
Máy linh mấy kẻ thông tường,
Đủ đầy hạnh-đức thiện-lương mới thành.
Tuy thế-gian tu-hành lắm đó,
Thành Phật, Tiên đâu có được nhiều!
Tầm về cội phước tiêu diêu,
Dễ dàng quỉ-quái ma-yêu choán rồi.
Kinh khuyến thế tô bồi bổn tánh,
Tìm Đạo mầu hành chánh pháp y,
Về phần bí-khuyết vô-vi,
Truyền nhau bằng miệng mới thì Chơn-Kinh.
Thi:
Kinh sám lưu thông tỉnh thế thời,
Đạo truyền độ rỗi kẻ lưng vơi,
Biết đường Thiên-lý noi theo bước,
Thoát khỏi sông mê cuộc đổi dời.
Hựu:
Dời non đổi biển khó chi đâu?
Những hạng không tu họa đáo đầu,
Kiếp kiếp sừng lông thay đổi mãi,
Tầm đường thiện phước mấy ai đâu?
THẦY LƯỢC LUẬN CHỮ "TU"
Thi Bài:
Trong phép Đạo tu tâm đệ nhứt,
Tu tâm là đứng bực Tiên-Thiên,
Tu thì mới đoạt căn nguyên,
Tu trau tánh mạng diệu-huyền phát sanh.
Phật, Tiên nhờ tu hành mà đắc,
Phép tu là đường tắt nẽo ngay,
Tu sao đứng bảng Thiên-Đài,
Tu cho siêu thoát trần-ai bể sầu.
Thầy Chúa-Tể pháp mầu hoằng hóa,
Đạo chỉ truyền tất cả linh-căn,
Luyện tu thoát tục lẽ hằng,
Tu cho cửu-khiếu dường trăng đêm rằm.
Tu thì phải tồn-tâm dưỡng-tánh,
Tu trau tria đức hạnh ôn lương,
Tu phân Địa-Ngục Thiên-Đường,
Thân tu, thân đắc, thân tường Đạo cao.
Xưa Tam-Giáo dạy trau tâm chí,
Nay tương-truyền huyền-bí Đạo Tiên,
Tu hành học tánh nhẫn kiên,
Sớm trưa giồi luyện tịnh thiền dưỡng an.
Mặc kẻ thế bua quan cầu lợi,
Giữ phận mình nhân-ngỡi vẹn toàn,
Tu theo chơn-pháp Thầy ban,
Tu trong tam ngũ cơ quan máy Trời.
Điều quí nhứt trong đời tu luyện,
Ai hữu-căn giục khiến vào tu,
Hễ tu vẹt phá ám mù,
Đắc Tiên nên Phật thiên thu an nhàn.
Tu mới đoạt ngôi vàng phẩm báu,
Tu luyện tầm gốc Đạo Tiên-Thiên,
Phế đời xa lánh lợi quyền,
Học đòi tánh Phật, ý Tiên kia là.
Tu thân đắc mới ra độ thế,
Tu sửa đời u-trệ Hạ-Nguơn,
Tam-Kỳ Đạo chuyển tuần-huờn,
Châu nhi phục thỉ, Đạo chơn chánh truyền.
Tu chẳng luận sơn xuyên am cốc,
Tu cũng đừng tịch cốc hành thân,
Tu là tụ khí ngưng thần,
Tu cho tráng kiện mười phần nhàn thanh.
Tu thiền-thị, tu thành mới đúng,
Tu tại gia, chẳng dụng của ai,
Chữ tu nó chẳng ở ngoài,
Tu trong tâm tánh giồi mài điểm linh.
Tu vẹn xử phận mình cho đúng,
Chớ đừng tu ngoài bụng ngoài da,
Khăn nu áo trắng nhuộm dà,
Rốt cuộc cũng quỉ, cũng ma luân-hồi.
Tu Nguơn-Thần lên ngôi cai trị,
Dẹp trừ yên lục quỉ, bảy yêu,
Tu bồi cơ sở Thuấn, Nghiêu,
Gia môn bế chặt, ngựa chiều nhốt trong.
Tu lập đức bồi công độ chúng,
Tu khuyên đừng lạm dụng Phật tông,
Khỉ thì bỏ đậy trong lồng,
Cột xiềng cho chặt kẻo tông chạy ngoài.
Tu thì tu: mắt, tai, mũi, miệng,
Mối dục-tâm sai khiến diệt trừ,
Mới mong lập đảnh an lư,
Long thăng, hổ giáng huệ từ chiếu soi.
Tâm thanh tịnh ra mòi thấy rõ,
Tựu tam-huê đặng có huờn đơn,
Luyện thành Chánh-Giác Chơn-Nhơn,
Minh châu đáy nước xanh dờn sáng soi.
Thọ Pháp Đạo phải noi phanh-luyện,
Tứ thời tu vận chuyển tâm điền,
Pháp-luân xây mãi liền liền,
Làm cho Hống đặng giao Diên mới mầu.
Tu lớp lang đuôi đầu sau trước,
Hữu căn-duyên thì được ngộ truyền,
Phép tu tạo Phật tác Tiên,
Thiên-cơ ứng hóa diệu-huyền phát sanh.
Bổn phận tu phải đành khờ dại,
Ngữ-ngôn gìn lẽ phải điều hơn,
Tu rồi đừng giận, chớ hờn,
Để tâm thanh tịnh, linh-đơn kiết thành.
Tu gạn-đục lưu-thanh tinh khiết,
Thượng phù Thiên trược miệt Địa ngưng,
Nước hồ phải quậy tưng bừng,
Tịnh êm lóng lại cặn ngưng thanh phù.
Lẽ thanh trược nhờ tu phân biệt,
Bực Thánh phàm tu biết đôi nơi,
Nhờ tu mà đoạt máy Trời,
Tu nhờ cố sức chiều mơi năng bồi.
Nếm mùi Đạo, ôi thôi! ngon ngọt,
Mát mẽ lòng vui trót đêm ngày,
Đạo mầu càng nhiễm, càng say,
Càng cao phẩm vị, càng hay nhiệm mầu.
Thầy triết luận đôi câu tu luyện,
Người biết tu tăng-tiến cao siêu,
Tu sao khỏi phạm Thiên-điều,
Tu thành Tiên, Phật dắt dìu chúng dân.
Nước không Đạo quân thần rối loạn,
Mới nảy ra phe đảng chiến tranh,
Đời toan mưu chước giựt giành,
Xa lìa Đạo-đức đã đành bại suy.
Nhà vô Đạo lỗi nghì tội quá,
Có cần chi thượng hạ kỉnh tôn,
Loạn luân mất hết trí khôn,
Như nhà không chủ, như đồn không binh.
Người mất Đạo, như hình cây cỏ,
Sống ở đời mà có biết chi,
Tối-tăm khờ-khạo ngu-si,
Sống càng đê-tiện, ích chi cho người.
Thăng.
Mùng 3 tháng 8 - Bính Tý (1936)
LUẬN VỀ ĐẠI-ĐẠO TÂM-TRUYỀN
CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG, Thầy mừng các con. Thầy tái bút, Thầy dạy tiếp về "ĐẠI-ĐẠO TÂM-TRUYỀN".
Từ cổ chí kim, chư Phật, Thánh, Tiên cũng phải dùng cơ bí-truyền tâm-pháp mà tu-tánh luyện-mạng mới mong siêu phàm nhập Thánh.
Loài người tánh linh hơn vật, thọ bẩm khí Tiên-Thiên mà thành hình. Bỡi vậy mới kêu rằng "Nhơn".
Chữ NHƠN là gì?
Chữ Nhơn ( ) có ẩn cái cơ huyền bí Đạo mầu, vì chữ Nhơn phết một phết bên tả là "chánh dương", bên hữu là "chơn âm". Âm dương lộn lạo, bởi con người có động có tịnh, nửa trược nửa thanh. Người mà trực giác, mẫn huệ sớm biết tầm phương tu luyện, biện trược phân thanh thì được nhẹ nhàng sáng suốt.
Chữ TU là gì?
Tu là bồi bổ tinh, khí, thần cho đầy đủ, đức tánh cho hoàn toàn, bỏ nhơn dục tầm đường Thiên-lý thuận mạng, giữ thanh tịnh, ôn hòa, chỗ nào sứt mẽ, hư hao thì tô bồi cho đầy đủ.
Chữ LUYỆN là gì?
Luyện là trau giồi cho sáng suốt hoàn toàn, giũa mài, rèn đúc cho trơn tru khéo léo.
Tu mà không Luyện thì chẳng khác chi một cục sắt không rèn, làm sao thành một món khí giới. Người tu cũng thế.
Muốn cho huệ mạng trọn đầy, sáng suốt thì cần phải phanh-luyện, mài, giũa ngày đêm cho thành kim-thân Phật tử. Ấy là phương pháp tu luyện.
Các con khá biết rằng Thầy hằng nói: Thầy là các con, các con tức là Thầy. Có Thầy mới có các con, mà có các con rồi mới có chư Tiên, Phật, Thánh, Thần, thì người là "tiểu Thiên Địa". Điểm linh-quang nào muốn tạo Phật tác Tiên cũng phải đầu thai vào thế giới hữu hình vật chất. Dầu cho một vị Đại-La Thiên-Đế giáng trần đây không tu luyện cũng khó mong trở lại.
Điểm Linh-Quang là gì?
Là một cái yến sáng mà thôi. Thái-Cực là một "khối Đại Linh-Quang" chia ra, ban cho mọi người một điểm "tiểu Linh-Quang", khi đầu thai làm người. Đến chết điểm linh-quang ấy quày về hiệp nhứt với "Đại Linh-Quang".
Các con có rõ hai chữ: Thiêng-Liêng chăng?
Thiêng-Liêng là nối tiếp theo. Hễ kẻ nào tu đắc Đạo cũng phải chịu dưới luật riêng cơ pháp.
Trời ban cho mỗi người một điểm linh-quang (nguơn-thần). Điểm linh-quang ấy phải đầu thai xuống thế-giới hữu hình vật chất này, mượn xác phàm tu luyện mới thành Tiên đắc Phật. Nhờ có cái xác phàm nầy mới thành Đạo mà tạo Phật tác Tiên, tiêu diêu cảnh lạc. Tại sao vậy?
Tại tuy có nguơn-thần mà không có ngươn tinh, nguơn khí thì làm sao tạo thành nhị xác thân. Nguơn-thần là dương, nguơn-khí là âm. Đạo phải có âm dương mới sản xuất anh nhi tạo thành xá lợi.
Mượn cái xác phàm này mà lấy nguơn-tinh: khí, huyết, rồi luyện nguơn-tinh cho thành nguơn-khí thì tính Hậu Thiên trở lại tính Tiên-Thiên.
Luyện nguơn-khí là nuôi lấy nguơn-thần cho sáng suốt. Dầu cho vị Phật, Tiên nào cũng phải chịu đầu thai vào thế giới vật chất luyện cho đắc thành thánh thai Phật tử mới về ở thế giới hư linh, chớ đừng nói trong hàng Phật, Tiên đắc Đạo mà không tu luyện theo pháp này thì làm sao thành chánh quả!
Phép luyện đơn chẳng chi lạ. Hễ muốn tạo thành Thánh thai tất phải dụng công phu nghịch chuyển pháp-luân thì thành Thánh, còn thuận hành nhơn dục là vi phàm.
Thăng.
12 tháng 8 - Bính Tý (1936)
NHƠN VẬT TẤN HÓA
Thi:
CAO thanh Đạo-lý tác Thần, Tiên,
ĐÀI các đắm-say vướng não-phiền,
THƯỢNG trí nào ai lo giúp chúng,
ĐẾ ngôi trở lại thú nhàn yên.
Thầy các con. Thầy mừng các con.
Thầy dòm thấy cuộc đời, nào khác chi phù vân mộng ảo, thoạt có thoạt không, sớm dời chiều đổi. Cái cuộc tang thương nào tránh khỏi!
Than ôi! Ách nước tai Trời dồn dập, nào là nắng lửa mưa dầu, đó là cái họa chung cả nhơn loại. Hềm vì cuộc truy hoan biến cải, cả đoàn con sao cứ chen lẫn mãi vào chỗ vũng tanh-hôi xâu-xé giựt-giành vì mồi danh bã lợi, mới có gây tai-họa cho xã hội nhơn quần chịu lầm than khổ sở.
Than ôi! Kẻ trí hiếp người ngu, đứa khôn lừa lũ dại, mạnh còn yếu mất, nào để chút tâm ái vật yêu nhơn, miễn mặc đẹp, ăn no, vợ con phu phỉ, quên đường Đạo-đức, nên chi phải tiều tụy tinh thần, con bao nả vùi thân lấp thể.
Tam-Giáo dạy đời đã chẳng kể, chỉ toan lòng độc ác, ngang dọc cõi trần ai, mới chịu dưới quyền pháp luật hình, để phạt răn lòng tà vạy: Cơ báo ứng không sai, cân thiêng liêng đâu xê xích đặng. Hễ làm lành thì gặp phước, toan lòng dữ họa lai, nhơn nào quả nấy, chưởng đậu đắc qua, xưa nay chưa hề có thấy. Như người ngồi trên xe kéo là phước, kẻ dưới xe là họa.
Thi:
Họa phước ai đâu buộc trói vào,
Tầm đường chánh-giác hưởng thanh cao,
Bờ mê lẩn-quẩn vô-thường dắt,
Nghiệp quả mình gây chịu lấy nào!
Thầy vì thương xót đoàn con áp-út còn ngây-ngẩn trong giấc mộng nam-kha, đến dùng phép nhiệm mà trừ khử bịnh mê tà, tầm nẻo chánh dắt ra, hầu trở lại quê hương ngày trước.
Cái luật tấn-hóa của Vũ-Trụ Càn-Khôn rất là im-ẩn diệu-huyền, tấn-hóa ấy một cách tự-nhiên. Các con nào lấy mắt phàm thấy đặng cái cơ mầu-nhiệm ẩn-tàng nhưng lý tuyệt-diệu tinh-xảo cực-kỳ. Dẫu cho Phật, Thánh, Tiên có dễ gì tri cơ Tạo-Hóa. Biết bao nhiêu tấm màn bí-mật nó phủ kín, bao che sự mầu-nhiệm của Đấng vô-hình thiên nhiên sắp sẵn. Quyền lực của Tạo-Đoan định lệ, nào ai đặt tay vào sửa đổi pháp mầu-vi.
Cái máy kín nhiệm Thiên-cơ nó cứ vận hành bao quát, xây chuyển bốn phương, cái lại, cái qua, hết cái này sang cái nọ, cứ nối tiếp nhau mà lưu chuyển khắp nơi trong nháy mắt đã lập thành cơ Đạo.
Bởi vậy cho nên, Tam-Giáo Thánh-Nhơn vì đời lầm lạc gây tạo nghiệp quả, luân-hồi chuyển kiếp mà đền bồi tội trước. Thánh-Nhơn mới ra đời phát hưng cái lý thuyết Đạo-đức tinh thần mà dìu dắt đám lương nhân thoát ra khỏi lồng trần giam hãm, dạy cho sanh chúng ăn ở theo luật Thiên nhiên, chỉ tâm-pháp bí-truyền hầu phanh-luyện mà siêu phàm nhập Thánh.
Tam-Giáo Thánh-Nhơn gầy dựng cái nền tảng cao siêu, mầu nhiệm Tạo-Đoan, Thiên-cơ bí-mật, mà cái sự mầu-nhiệm Tạo-Đoan, Tam-Giáo chỉ truyền trong muôn một, có dám bày vẽ ra đâu!
Các con mà dòm thấy cái Thiên-cơ của Thầy thì các con mới hãi hùng lo sợ.
Khờ lắm thay! dại lắm thay! Đã sanh đứng làm người là chúa của muôn vật, sao chẳng biết tầm cái máy bí-nhiệm ấy tu hành thoát ra khỏi cái phạm vi chật hẹp, để chi chịu mãi tội tình đày đọa luân-hồi chuyển kiếp, lúc thì mang vi cánh, hồi lại sừng lông. Ôi! Thảm! Ôi Thảm! . . .
Người là gốc của muôn vật, muôn vật là ngọn của loài người, mà Trời, Đất là gốc của loài người, người là ngọn của Trời, Đất.
Luật tấn-hóa của thảo mộc, thú cầm, nhơn loại, nó từ từ tăng tiến mãi, nhưng cũng có thối hóa vậy.
Các con nghe: Như loại thảo mộc cũng có thọ nơi Thầy một điểm nguyên hồn. Nó cũng sống, nhưng trí hóa khờ ngây.
Các con coi đó, từ thảo mộc bắt đầu lên cho chí loài người, nó có 3 cái phép:
1. Như thảo-mộc thì cái gốc trở xuống, ngọn day lên (gốc đầu, ngọn chơn).
2. Rồi nó tấn-hóa đến bực thú cầm thì cái đầu, cái đuôi ngang nhau.
3. Thú cầm qua nhơn-loại thì cái đầu trở lên trên cái chơn xuống dưới.
|
|
|
Ấy là 3 phép.
1) Gốc trở xuống, ngọn day lên. (Gốc đầu, ngọn đuôi)
2) Đầu đuôi ngang nhau.
3) Đầu trở lên, chơn trở xuống.
Vậy từ thảo mộc có một phần hồn. Thảo mộc tấn-hóa mãi, muôn vạn kiếp mới bước sang qua thú cầm thì từ thú cầm đã đặng hai phần hồn. Thú cầm mới dần dần tấn-hóa mãi, trăm, ngàn, muôn kiếp lên đặng làm người thiệt là trăm đắng ngàn cay, muôn thảm vạn sầu, biết bao nhiêu là công phu khổ hạnh, xả thân giúp đời một cách khó khăn cực nhọc, nhưng cũng vui lòng, mãn kiếp nọ sang kiếp kia, cứ lập công quả mãi.
Vạn vạn muôn muôn lần đầu thai mới qua đặng phẩm bực loài người, thì tấn-hóa đến loài người đã đủ trọn tam hồn thất phách.
Những con thú mới qua làm người thì còn khờ-khạo, ngu-ngây, tánh tình độc hiểm, nhưng biết khôn xả thân giúp đời thì chuyển kiếp đôi ba chục lần cũng đặng minh-mẫn, khôn-ngoan.
Nhưng đã đặng làm người phải tấn-hóa, mà tấn-hóa mãi thì cần phải chịu chuyển kiếp trăm ngàn lần đặng học hỏi mọi lẽ thế gian. Đặng làm người rất khó.
Người muốn tấn-hóa đến phẩm vị Tiên, Phật, Thánh, Thần thì phải tu tâm, dưỡng tánh, tích đức, thi ân. Từ đây mà lên đến địa vị Tiên, Phật rất là chua cay nông nỗi, có dễ dầu chi . . .
Nhưng người nào có lòng thiện Đạo tu hành, tánh cách hiền lương, hòa hảo thương yêu cả mọi người, thị của đời mộng ảo, không ưa vật chất, chỉ chuộng tinh thần, ý chán đời không lưu luyến đỉnh chung lợi lộc thì có ngày gặp Tiên, Phật chỉ truyền cái phép tu tánh luyện mạng, qui tam bửu ngũ hành, tạo thành ngôi vị. Ấy là tấn-hóa đến phẩm Tiên, Phật rồi thì tiêu diêu khoái lạc, an hưởng chốn thanh nhàn, không dời đổi biến thay.
Điểm linh-hồn nào cũng phải chun qua cái cửa đó mới thành Tiên, Phật. Còn người không tu thì phải chịu ở mãi dưới thế-giới hữu hình này mà lập công quả, học hỏi cho khôn ngoan cho đến tánh cách chí thiện, chí mỹ thì chừng đó mới sang qua thế-giới khác, cũng làm y như vậy mà đặng sang qua thế-giới khác nữa. Ít ra con người phải đầu thai trăm ngàn lần, công phu khổ hạnh mới đặng bỏ địa cầu này đến địa cầu khác, khó nhọc biết bao, chuyển kiếp đi vòng quanh mãi, trong Tam-Thiên Thế-Giới, Tứ-Đại Bộ Châu, Thất-Thập-Nhị Địa, Tam-Thập-Lục Thiên. Đúng ba nguơn sợ không có chí khó nhập vào Thiên-môn Phật-cảnh đặng, chi cho bằng tu tắt là thọ bí-pháp luyện Tiên-đơn, ấy là cái thang phép mầu vi vượt cảnh hay là cái "Bửu-Phan" để rước linh-hồn. Các con khá kiếm hiểu lời Thầy nói đó.
Còn sự tấn-hóa thì từ con thú đến làm người còn dễ, chớ người mà tấn-hóa đến Tiên, Phật khó thay, vì con người cả mang lòng dục-vọng, ham muốn, ưa chuộng tửu, sắc, tài, khí, lưu luyến tình đời, dâm dục quá độ, hung bạo không ngằn thì phải chịu thối hóa trở lộn xuống mang lông đội sừng mà đền bồi tội quả.
Thi:
Then máy huyền-vi đã mở rồi,
Vén màn bí-mật dứt luân-hồi,
Thiên-cơ phát hiện ai tầm đoạt,
Tạo Phật tác Tiên trở lại ngôi.
Thi bài:
NGÔI-HAI giáng thế cứu đời,
Ban truyền pháp luật Đạo Trời phá mê.
Cuộc trần ngó đến mà ghê,
Chúng-sanh đắc tội khó bề thảnh-thơi.
Kìa coi vật đổi sao dời,
Vững vàng chỉ một Đạo Trời chẳng lay.
Thiên-cơ mật-pháp chỉ bày,
Hầu đưa nhơn loại đến đài Linh-Tiêu.
Thầy vì quá lẽ mến yêu,
Nên chi giáng thế dắt dìu chúng-sanh.
Thấy con không nở bỏ đành,
Bèn quay bánh pháp nghịch hành vớt lên.
Chỉ phương xây móng đấp nền,
Luyện huờn tam ngũ làm nền Tiên-Gia.
Âm dương hỗn hiệp điều hòa,
Huân chưng đầm ấm mới là kiết đơn.
Điểm khai trong khiếu Nê-Huờn,
Long thăng hổ giáng bảo nguơn xuất thần.
Luyện thành đặng nhị xác thân,
Lọc tinh lấy khí nuôi thần thông minh.
Ngày đêm trau sửa tánh tình,
Giữ tâm thanh tịnh vẹn gìn Đạo cao.
Trong ngoài chẳng động đừng xao,
Hồi quang phản chiếu hiện màu bạch quang.
LY cung lấp đặng thì CÀN,
Chơn dương tám lượng rõ ràng trong âm.
LY thuộc hỏa, hỏa tạng tâm,
Huờn hư KHẢM vị khí trầm thần quang.
KHẢM LY trở lại KHÔN CÀN,
Hà-Đồ chánh Đạo, sái đàng Lạc-Thơ.
Tu đơn luyện kỹ bốn giờ,
Hống Diên giao cấu đợi chờ thuốc sanh.
Dưỡng châu Bát-Quái vận hành,
Như gà ấp trứng, mèo rình chuột ra.
Luyện đơn lấy thuốc Tiên-gia,
Xông riêm thần khí điều hòa đắc linh.
Thi:
Linh Đơn chí bửu, bửu trường sanh,
Luyện đắc Thánh Thai Đạo-đức thành,
Trường cửu thiên thu an hưởng mãi,
Vò tròn quả phước đặng nhàn thanh.
* * *
Thanh nhàn hứng nguyệt vịnh thi Tiên,
Phải dứt trần ai hết não phiền,
An lạc cảnh trên vui Đạo-đức,
Gát vòng danh lợi khỏe và yên.
* * *
Yên hà nhẹ gót bước xuê xang,
Tâm chí người tu thích chữ nhàn,
Lưng túi gió trăng du cảnh thượng,
Dưới vòng đất bụi có gì sang!
* * *
Sang trọng làm chi bả thúi tanh,
Đua nhau rộn rực đẩy xô giành,
Chán đời giả mộng tìm chơn Đạo,
Luyện phép Thần, Tiên đắc quả lành.
Thi:
Lành dữ hai đường đọa với siêu,
Đòn cân tội phước trả mai chiều,
Khôn lên bờ giác thành Tiên, Phật,
Dại xuống bến mê hóa quỉ yêu.
Thưởng phạt rõ ràng không phải ít,
Nghèo giàu trước đó biết bao nhiêu,
Luân-hồi quả báo ra đâu đặng,
Chỉ biết tu hành mới dứt tiêu.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng..
28 tháng 8 - Bính Tý (1936)
THẬP TỰ TAM THANH
Thi:
NGỌC chẩm huyền môn phá khiếu trung,
HOÀNG lư pháp diệu Khảm Ly cung,
THƯỢNG điền ký tế âm dương huợt,
ĐẾ dĩ Càn-Khôn vạn vật tùng.
Mừng các con, đại tịnh, nghe Thầy minh Đạo.
Thầy giáng giờ nay là vì các con nhứt tâm thiện nguyện tu hành đặng thoát ly tứ khổ.
Than ôi! Các con còn khuyết điểm rất nhiều trong bước đường Đạo-đức. Ngày nay đã tìm ra lý chánh, lánh đường tà thì các con phấn lực tận tâm thiệt hành pháp diệu. Thầy sẽ truyền Đạo pháp chỗ "QUÁN NHỨT CHẤP TRUNG" cho các con phanh-luyện, tụ khí ngưng thần hầu có siêu phàm nhập thánh. Nếu các con chẳng đặng nhứt tâm thì phải chịu luân-hồi chuyển kiếp vạn vạn muôn muôn, tùy cơ tuần huờn vận chuyển mà tấn-hóa mãi cho tận đến nơi Thầy, biết bao nhiêu là khó khăn lao lụy. Vậy các con phải biết rằng: Đạo là vô-vi, hạo nhiên chi khí, vận tải châu lưu trước khi sanh Trời, Đất. Trời, Đất phải bẩm thọ khí hạo nhiên sanh ra rồi phân định Nhựt, Nguyệt, Tinh cùng muôn loài vạn vật.
Các con ngày trước thọ bẩm nơi Thầy một điểm "thanh-hư huyền-khí" giáng trần, bị khí Hậu-Thiên hãm sát vào làm cho vật báu linh biến tan ra nơi thất-tình, lục dục, lục-trần, lục-căn mà tiêu tan lần lần hết tam-bửu ngũ hành. Càng ngày càng làm cho hư hỏng cái điểm thanh-quang của Thầy ban cấp, biết đường sá đâu mà trở lại, dầu có muốn trở lại cũng chẳng dễ gì. Là tại sao các con?
Là tại không có Thánh-thai Phật-tử đó vậy.
Tại sao các con phải chịu chuyển kiếp luân-hồi?
Là vì các con xa nơi chỗ Đạo, hư hỏng tinh-thần, tiêu mòn khí huyết, chẳng biết đem tánh mạng hiệp hòa, luyện tam bửu cho đầy, qui năm hành nhứt khiếu.
Sao lại tử tử, sanh sanh?
Các con muốn hiểu chỗ Đạo thì trước phải phanh-luyện tinh-thần và phải tạo một cái xác thân thiêng-liêng kêu rằng "Mâu-Ni" hay là "Xá-Lợi". Cái xác thân thiêng-liêng ấy bất tiêu, bất diệt, bất tử, bất tồn, mà các con cần phải có xác thân ấy.
Xác thân ấy là chi?
Là cái bổn tánh thuần-dương vậy. Khi các con bỏ xác phàm nầy thì điểm linh-quang của các con nương theo đó mà về thẳng đến nơi Thầy. Còn các con không có cái xác thân ấy, các con phải chuyển kiếp khác hoài hoài, luân-hồi khó dứt. Còn như các con không chuyển kiếp đầu thai thì các con phải luân-vơi nơi âm dương khí mà hóa tan rã ra thành mây mưa gió bụi. Vậy thì điểm linh-hồn của các con phải tiêu diệt còn chi. Các con phải biết rằng: Muốn tạo xác thân thiêng-liêng ấy chẵng phải dễ mà cũng không khó chi. (Cười . . .)
Thầy hỏi thử: như loài thủy tộc nó không luyện đến khí hư-linh này, nó bỏ nước mà ở khô đặng chăng? Là vì nó ở chất thủy quen (khí chất lỏng). Ít nữa muốn từ nơi thủy mà lên khô ở thì cá ấy phải luyện cho hạp với khí hư-không, còn không hạp thì trong đôi phút đồng hồ phải dứt hơi mà chết. Các con khá biết à!
* * *
Đây Thầy giải về THẬP-TỰ TAM-THANH.
Tại sao Thờ Thập-Tự? Cười . . . Các con không hiểu đâu? Cười . . . đó là Đạo.
Tại sao kêu là Đạo?
Cái sổ dài xuống ( | ) là nhứt dương chi khí hay là hạo nhiên khí.
Còn cái ngang qua ( ) là nhứt âm chi khí hay là huyền khí.
Âm dương ấy có động, có tịnh, nó có trược có thanh mà trong âm dương đó có lẫn lộn nhau:
Âm có lẫn lộn một phần chơn-dương (trung âm, hữu dương) nên có huyền-khí xung lên.
Dương có lẫn lộn một phần chơn-âm (trung dương, hữu âm) nên có lửa hư-vô trầm xuống.
Hai khí ấy bèn đun đẩy, đụng chạm nhau mà hỗn hiệp mới huân-chưng đầm-ấm, hóa-hóa sanh-sanh muôn loài vạn vật. Hai điển-quang ấy gát chồng nhau (lằn điển dương nằm trên, lằn điển âm nằm dưới), kêu rằng "Lưỡng Nghi". Lưỡng-Nghi mới sanh "Tứ-Tượng" là vì lằn điển âm dương gát chồng nhau, ló ra bốn cánh thành chữ Thập ( + ). Chữ "thập" đó mới vần vần quanh lộn, chạy lăn tròn như chong chóng mà văng tủa ra muôn ngàn triệu quả linh cầu thế-giới.
Chữ Thập ấy ở dưới có bốn cái bóng kêu là "Tứ âm". Tứ âm với "Tứ dương" mới kêu rằng "Bát-Quái". Bát-Quái ấy tác thành thì biến hóa vô cùng vô tận, nên mới phân định ngũ hành cùng Càn-Khôn muôn vật. Các con rõ chăng? Đó là Thập-Tự.
Trong Thập-Tự các con thờ ngày nay đó lại có đề:
1 - Sổ Dài Xuống:
a) Ở phía trên đề: Huyền-Khung-Cao Thượng-Đế, Ngọc-Hoàng Đại-Thiên-Tôn.
b) Ở dưới: Cao-Đài, - Thái Bạch, - Thổ Thần Tiên Ông, là ý nghĩa gì?
Ở trên thuộc về: Cao-thượng vô-hình, còn ở dưới thuộc về: Hậu-Thiên hữu chất.
Chữ Cao-Đài là chi?
Là Côn-Lôn đảnh hay Nê-Huờn, thuộc về Thượng-Giới.
Chữ Thái-Bạch là cái tâm kêu là Linh-Sơn Tháp, thuộc về Trung-Giới.
Chữ Thổ-Thần là đơn-điền kêu là huỳnh-đình, thuộc về Hạ-Giới.
Tại đơn-điền là chỗ chứa đơn, an-lư lập-đảnh mà luyện Thánh-thai. Chừng nào Thánh-thai đó đặng siêu xuất tam giới thì hiệp với Thượng-Thanh chi khí.
Vậy Trời cũng có tam giới là: Vô-Sắc giới, Sắc giới, và Dục giới, còn trong thân thể con người cũng có tam giới. Chừng nào linh-hồn phá Thiên-môn đặng là nhập vào Thượng-Thanh-Cung.
Thiên-môn là chi? Là cái khiếu Nê-Huờn-Cung đó.
(HÌNH THẬP-TỰ TAM-THANH)
2 - Sổ Ngang Qua lại có đề "TAM-THANH chi vị". Tam Thanh là: Chơn-Thanh (Thái-Thanh), Ngọc-Thanh, và Thượng-Thanh.
Chơn-Thanh là Nguơn-khí của các con,
Thượng-Thanh là Nguơn-thần
Ngọc-Thanh là Nguơn-tinh
Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt mới thành Đạo, các con khá hiểu à.
Trời có ba báu là: Nhựt, Nguyệt, Tinh, hay là tam nguơn: Thượng, Trung, Hạ.
Đất có ba báu là: Thủy, Hỏa, Phong.
Người có ba báu là: Tinh, Khí, Thần.
Trời nhờ ba báu ấy mà dưỡng dục muôn loài, hóa sanh vạn vật, luân chuyển Càn-Khôn mới chia ra ngày, đêm, sáng, tối.
Đất nhờ ba báu đó mà phong võ điều hòa, cỏ cây tươi nhuận, phân ra thời tiết: xuân, hạ, thu, đông.
Người nhờ ba báu đó mà tạo Tiên, tác Phật.
TAM GIÁO
Đây Thầy giải về: TAM-GIÁO (Nho, Thích, Đạo).
NHO thì có tam-cang là:
Quân-thần-cang là Nguơn-thần.
Phụ-tử-cang là Nguơn-khí.
Phu-thê-cang là Nguơn-tinh.
Tại sao quân-thần-cang là Nguơn-thần?
Thần ở trong mình con người như vị Đế-Vương cai quản một quốc gia, Khí cũng như chư hầu, bá tước, Tinh như con dân.
Hễ vị Đế-Vương hôn-muội thì quốc-dân bất minh, chư hầu bất phục, làm sao mà bình-trị quốc-gia?
THÍCH thì tam qui là:
Qui y phật là tịnh dưỡng Nguơn-thần.
Qui y pháp là gìn giữ Nguơn-khí.
Qui y tăng là bảo tồn Nguơn-tinh.
ĐẠO thì Tam-Thanh là:
Chơn-Thanh (Thái-Thanh) là Nguơn-khí.
Thượng-Thanh là Nguơn-thần.
Ngọc-Thanh là Nguơn-tinh.
Đó là Đạo, các con phải biết.
NGŨ HÀNH
Đây Thầy phân ra Ngũ-Hành.
Trong chữ Thập ấy, âm dương gát chồng lên nhau mới ló ra bốn cánh mà kêu rằng: "Tứ-Tượng thành hình". Bốn cánh ấy phân ra Nam, Bắc, Tây, Đông.
Lấy trung tâm cốt là . . . = Mồ Kỉ : Thổ,
Bên tả làm Đông phương thuộc = Giáp Ất : Mộc,
Bên hữu làm Tây phương thuộc = Canh Tân : Kim,
Trên làm Nam phương thuộc = Bính Đinh : Hỏa,
Duới làm Bắc phương thuộc = Nhâm Quí : Thủy.
Trời có Tiên-Thiên ngũ khí, Hậu-Thiên ngũ hành. Ngũ khí, Ngũ hành ấy là:
Thiên nhứt sanh Thủy, Địa lục thành chi,
Thiên tam sanh Mộc, Địa bát thành chi,
Thiên ngũ sanh Thổ, Địa thập thành chi,
Địa nhị sanh Hỏa, Thiên thất thành chi,
Địa tứ sanh Kim, Thiên cửu thành chi,
Ngũ-hành, ngũ-khí giao nhau mới sanh hóa đặng,
Lại Trời cón ngũ-khí, thì Đất có ngũ-phương, người có ngũ-tạng. Người ngộ Đạo phải lấy ngũ-hành ấy chế tạo mà luyện kim-đơn cho thành xá-lợi.
Muốn thành xá-lợi cần vận chuyển pháp-luân cho ngũ khí triều-nguơn, tam-huê tụ-đảnh.
Làm sao cho ngũ-khí triều-nguơn, tam-huê tụ-đảnh đặng?
Muốn tam-huê tụ-đảnh phải bảo tinh, dưỡng khí, tồn thần. Luyện chơn chưởng thành đồ cho tinh hóa khí, khí hóa thần, thần huờn hư. Ba báu qui về tại kim đảnh là thành Đạo.
Còn muốn cho ngũ-khí triều-nguơn phải dụng công phu định cái tâm, gìn cái ý, bế ngũ quan, thì ngũ-tạng hiệp về, tâm hồn thanh tịnh vô-vi thì:
Nam phương Xích-Đế triều nguơn.
Bắc phương Hắc-Đế triều nguơn.
Đông phương Thanh-Đế triều nguơn.
Nhĩ là tai, tai nghe điều phi lễ,
Nhãn là mắt, mắt ngó thấy sự tốt đẹp màu sắc thì khiến lòng dục dấy lên.
Vậy thì: mắt thấy, tai nghe, mũi ngữi, miệng nếm, thân ham thì mới làm cho thần xao động, sanh lòng quấy quá. Vã lại lục dục là sáu con quỉ, tức là sáu đứa du côn, nhưng nếu biết cách thâu phục chúng nó đặng thì sáu con quỉ ấy trở nên lục thông là đắc Đạo. Muốn thâu phục quỉ ấy phải làm cách nào?
Cần phải chủ cái Tâm, tâm cho thanh tịnh, định cái Trí, trí phải tự-nhiên. Lục dục được an, lục thần đầy đủ, hễ có lục dục thì có lục trần, mà có lục trần thì mới sanh lục tặc. Có lục tặc thì hại lục căn, lục thức, lục thần nên sa vào lục đạo. Ấy là kiếp con người không có nguơn-thần chấp chánh, để thức thần đương quyền thì dầu có sống, sống một cách vất vơ, như bù nhìn trơ trơ, để gió lay người đẩy.
Vậy con người cần phải phân biệt cái nào là nguơn thần, cái nào là thức thần, sự nào chơn, điều nào giả. Có khi thức thần tính làm chuyện quấy quá, tội tình, vô Đạo-đức mà trong đó lại có nguơn-thần không chịu cho làm những chuyện quấy quá.
Nguơn-thần muốn làm điều ít lợi chung, còn thức thần thì toan bề ích kỹ.
Sự nào không cắn rức lương tâm là của nguơn-thần muốn vậy, còn sự nào nhức nhói lương tâm là của thức thần ham muốn, khiến sai.
Trong tâm con người có nguơn-thần và thức thần, khi thì muốn động tác lúc lại chịu vô-vi, ấy là hai điều khá chọn lựa. Phải biết nhơn tâm, đạo-tâm khác xa. Giả thân, chơn thân hai thứ.
Sao là chơn thân, giả thân? Ngoài cái giả thân này, còn một cái chơn thân khác nữa. Chơn thân ấy là chi? Là nhị xác thân vậy. Cái xác thân ấy vững bền muôn kiếp, sống mãi bằng Trời, không tử, không sanh, không thêm, không bớt. Luyện đặng cái chơn thân nầy thì trường sanh bất tử, khỏi chịu quả báo luân-hồi, đời đời, kiếp kiếp an hưởng vui chơi nên Bồng-Lai Tiên-cảnh, ấy là Chơn-Nhơn vậy.
Thầy thấy người đời hằng lầm tưởng cái giả thân (nhơn thân) này tu luyện đặng cầu bất tử, trường sanh. Khờ lắm thay! dạy lắm thay! Bởi câu chấp mà sa mãi tội tình, trầm luân muôn kiếp. Cái xác thân nặng nề, nhơ bẩn thối tha này còn ham hố làm chi? Cái điểm linh-hồn bị mang xác thịt này, chẳng khác chi bị núi Thái-Sơn dằn chận. Cái điểm linh-hồn ngày nào bỏ đặng xác thân này thì chẳng khác chi để gánh Thái-Sơn xuống vậy. Người tu hành đắc Đạo không bao giờ chịu mang xác thịt này nhiều ngày. Ở thế, nó nặng nề lắm, đường xa muôn dặm vơi vơi, dầu dùng sức ngựa truy phong đi mãn kiếp cùn đời chẳng thấu, chớ linh hồn mà đặng bỏ xác thịt nặng nề này rồi thì trong bốn biển nháy mắt đến nơi tận chốn.
Linh-hồn ra khỏi xác thân này thì mừng vui khôn xiết, khoái lạc vô cùng, những linh-hồn nào còn nặng nghiệp quả tiền khiên phải chịu vâng theo Tạo-Công sai khiến, mượn xác thịt lập công, trả cho rồi nghiệp quả. Những Phật, Tiên ngày trước cũng dùng điểm linh-quang giáng thế, mượn xác thịt mà luyện đạo. Lấy nguơn-khí, nguơn-tinh hiệp cùng nguơn-thần tạo nên Tiên, Phật. Có nhị xác thân thì từ đó sắp sau mới là có thứ ngôi địa vị, chứ điểm linh-quang là một cái yến sáng mà thôi, nhưng cũng biết linh thông biến hóa.
THẤT-TÌNH
Đây Thầy nói về Thất-Tình là: hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, cụ. Con người vì bị thất tình, lục dục mà hao tổn tinh thần, tiêu mòn khí phách. Nó luôn đẩy xô nhân loại vào ao lửa núi gươm, hang sâu, vực thẩm.
Hỉ, nộ, ái, ố toàn là sự thường tình, hèn thấp của con người, lúc mừng, khi giận, cơn ghét, hồi thương, không chừng, không mực.
Hỉ là mừng, nộ là giận. Hễ gặp sự vui thích, thoả mãn lòng dục thì mến mà mừng. Còn gặp điều nghịch ý, bất mãn tâm tà, lại thảm, lại sầu mà giận. Bị vậy ngũ khí, tam huê mới mau hao kém.
Ái là yêu, ố là ghét. Hễ thuận tình triều mến, khoái sự ái ân thì mê thì thích mà yêu. Còn nghịch chỗ muốn ham, trái lòng thèm muốn, lại đố, lại ganh mà ghét. Bị vậy tinh huyết, thần lực mới chóng giảm suy.
Còn những ai, lạc, cụ, là: buồn, vui, sợ, thì cũng là những món rất hại trong đám thất tình, nên ví không sớm khử trừ cho tiêu ắt nó cứ mãi khuấy rối con người mà bắt phải sa vào những thói thấp hèn, ngu dốt.
Làm người phải tập chí cho cao thượng, đừng để thất tình cám dỗ, lục dục khiến sai, mình phải mạnh bạo, cương quyết mà làm chủ nó, chớ đừng yếu ớt lôi thôi để nó làm chủ mình. Rồi nó muốn chi cứ phải vừa theo nó mãi hay sao?
Ngoài những thất tình lục dục, lại còn tam thi, cửu cổ, ấy cũng là mối hại cho người.
Tam thi thần ở tại thượng-tiêu, trung-tiêu, hạ-tiêu. Ba con quỉ này trấn ba cửa ải, không cho thần, khí giao thông với Càn-Khôn thăng giáng. Còn 9 con ma nọ, lại giữ 9 lỗ khiếu không cho Tiên-Thiên tiếp ứng với Hậu-Thiên chi khí, thành thử con người phải chịu sa đọa mãi mãi hoài.
Vậy người luyện Đạo, tu đơn là phải khử trừ bao nhiêu trở lực ấy cho tiêu tan thì tam tiêu, cửu khiếu mới có thể xung thông Trời, Đất được.
Thí dụ như quả cầu (balle) cứ bơm hơi vô mãi cho đầy đủ, no nê, nhưng phải coi chừng vá mấy lổ trống cho kín lại thì bơm nó mới còn chứa hơi lại. Nhỏ như mũi kim, nó cũng xì hơi ra hết. Các con dầu có bơm mãi cũng vô ích. Lổ trống ấy ở đâu? Là giống gì? Là : Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, mấy đường cốc Đạo, dương quang và ái, ố, sân, si chớ chi. Các con bơm mãi vào mà không bít, vá, hàn nó lại thì nó xì lọt ra ngoài hết, các con nên chủ ý, ấy là phép tu luyện. Người tu hành chẳng nên nóng giận, nóng giận không tốt; mà cũng nóng giận đặng vậy, nhưng nóng giận về lễ, nghĩa, chớ không nóng giận về khí huyết sanh ra.
Thi:
Thất tình, lục dục sớm trừ xong,
Luyện tập ngày đêm sửa tấm lòng,
Khử diệt thất tình an tánh thiện,
Tu hành phải để chí "Không Không".
Tam thi cửu cổ đặng trừ yên,
Cửu khiếu thông thương luyện Đạo Huyền,
Thần khí giao hòa tâm huệ phát,
Âm dương hỗn hiệp đắc thành Tiên.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
16 tháng 9 - Bính Tý (1936)
TỒN TÂM DƯỠNG TÁNH
Thi:
CAO minh chánh đại phục linh-căn,
ĐÀI chiếu điển quang Đạo lý hoằng,
THƯỢNG phẩm chi nhơn tâm tánh thiện,
ĐẾ thành cơ hội đắc siêu thăng.
Thầy lấy làm vui cùng các con mà giờ nay ngự giá trước đàn để chỉ bày đôi lời Đạo-đức cho các con rõ thấu nguồn cả cội cao mà trau giồi linh tánh cho hiệp với không khí thượng tằng là cơ siêu phàm nhập Thánh. (Cười . . .)
Thi:
Tồn tâm dưỡng tánh kiến Như-Lai,
Đạo pháp thông lưu huệ đức khai,
Thường chuyển pháp-luân minh lý nhiệm,
Nhứt tâm tu luyện đắc Tam Tài.
Các con ngày hôm nay mà đặng nắm mối Đạo vào trong thì rất là hạnh phúc. Từ cổ chí kim đã biết bao nhiêu là lời Thánh, Hiền để lại mà khuyến thế độ nhơn, ngặt vì đời không chịu tầm chỗ u huyền thâm viễn, thành thử thế tục ngày luống biến thiên nhơn tâm ngày càng trụy lạc, Đạo-đức ngày một lu lờ, bèn xô đẩy con người cứ mãi xa lần cội phước, nguồn lành, mà vướng phải vào vòng luân hồi, lục đạo. Thầy rất lấy làm tội nghiệp, thương xót, đau đớn, Thầy bao nở điềm nhiên tịnh tọa, để xem cho bầy con lù lù lăn nhào đùn cục nhau mà đắm đuối chốn sông mê bể khổ. Ôi ! những luồng gió thảm vang lừng, những tiếng sóng sầu xao xác, nó hằng xúc động tận đến tâm Thầy. Vậy nên Thầy phải đành phế Ngọc-Kinh mà đem chơn lý Đạo Huỳnh để cứu vớt sanh linh trong thời hạ nguơn mạt kiếp này.
Vã trong đời, nhơn loại phải phân ra làm ba hạng người: trên là thượng trí, dưới là hạ ngu, ở giữa lại có hạng trung nhơn là đám phổ thông tầm thường.
Bực thượng trí ấy là hạng Thánh triết, là đám con giữ được cái tâm hồn thiên nhiên chí thiện, chí mỹ của Trời phú cho nên lòng trắc ẩn dồi dào, khỏi dạy mà xử thế cũng không sai lẽ Đạo. Đến bực tầm thường là hạng trung nhơn của xã hội thì thiện tánh tuy đã thiên di, song hễ có dạy là mau thức tỉnh, duy có đám hạ ngu thiệt là rất khó, tuy nhiên nếu lấy Đạo-đức mà tập rèn, huấn luyện cho dày công tất cũng có thể mở mang tâm trí được.
Trời đã sanh ra loài người thì đã phú cho một cái tánh thiện lương để người nương đó mà trau giồi cho sáng rở thêm lên, hầu tấn-hóa lần lần cho đến bực cao siêu thuần túy. Nào dè người bị thâm nhiễm thói đời vật chất, cứ mãi dấn thân vào vòng tục lụy mà Thiên tánh biến đổi, đến phải dang xa nẻo Đạo.
Tánh ấy là gì? Tánh là nguyên lý sở dĩ sanh ra nhơn loại, thế nên cái bổn nguyên về tinh thần của con người là lý.
Lý ấy rất linh diệu thiêng-liêng của Trời đã phân ra mà ban cấp cho mọi người, nên lý ấy tức là tánh vậy? Của Trời là lý, về người là tánh; lý, tánh như nhau, vì thế nên người với Trời mới có thể ứng tiếp liên lạc nhau rất là mật thiết, bởi vậy người hễ muốn tính sự gì tuy chưa làm ra mà Trời đã biết trước.
Trời với người cũng đồng một lý, một khí mà ra, thì không cảm ứng nhau sao được. Vậy người nếu biết trau giồi linh tánh cho thiệt sáng suốt anh minh thì tự-nhiên giao tiếp với Trời, thiệt là chẳng khó. Thế mà người đã linh hơn vạn vật, đã có cái bổn tánh thiêng-liêng rất quí báu vô giá như vậy, cớ sao người chẳng trau giồi mà cứ để lu lờ nhơ bẩn ngày một chồng lấp thêm lên mãi mãi. Ôi! khờ lắm thay ! Nghiêu, Thuấn cũng người, mà dẫu cho Tiên, Thánh, Phật thì trước kia cũng vẫn là người.
Bài:
Cơ mầu nhiệm huyền huyền diệu diệu,
Lý thiên nhiên bí yếu cao thâm,
Mấy ai để chí kiếm tầm,
Hầu toan đào luyện chơn tâm thiện từ.
Phải biết rõ dinh hư tiêu trưởng,
Phải nghĩ suy độ lượng độ đời,
Kiếm tầm tận chỗ cùng nơi,
Người đồng một tánh của Trời ban cho.
Muôn vật đồng trong lò Tạo-Hóa,
Hậu bạc chung cặn bả trược thanh,
Cho nên có dữ có lành,
Dữ lành tại bởi tập tành thói quen.
Tánh dốt nát ngu hèn người tạo,
Giam hãm vào lục-đạo luân-hồi,
Bởi chưng chẳng biết trau giồi,
Đặng cho bổn tánh phục hồi cội căn.
Tánh thì thiện như trăng tỏ rạng,
Tánh ấy là Thiên mạng ban cho,
Tánh đâu lại có vạy vò!
Tánh lành thông suốt rán mò kiếm ra.
Tâm tánh đặng hiệp hòa Trời, Đất,
Mà thông đồng muôn vật thế gian,
Tánh như thể một con đàng,
Không đi thường ắt mọc tràn chông gai.
Tánh như nước chảy dài là thiện,
Tánh luyện đào phát triển tinh vi,
Tánh là cách vật trí tri,
Người người cần phải gắn ghi trau giồi.
Đem trở lại vị ngôi cao thượng,
Đặng an nhàn thọ hưởng phước hồng,
Người nào còn giữ đặng lòng,
Cho minh mẫn tiệp không không chói lòa.
Người quân tử chẳng xa tâm tánh,
Gìn cái tâm cho chánh đáng tin,
Nó là một vật thần minh,
Đừng cho lục dục, thất tình lấp chôn.
Giồi luyện mãi tâm hồn hiển đạt,
Hậu thì làm mà bạc thì thôi,
Ngày đêm cố gắng tô bồi,
Cũng như ngọc báu có giồi mới xinh.
Tâm thì thiện mà linh uyên bác,
Giữ cho còn thì phát Thiên-cơ,
Đừng cho hư hỏng vất vơ,
Muốn ngăn nước phải đắp bờ trước khi.
Người để tâm mất đi mạng dứt,
Trong thân người quí nhứt là TÂM,
Mất đi nào khác thú cầm,
Thánh Hiền biết giữ cái tâm cho còn.
Tâm rán đúc muốn tròn hay méo,
Tâm nhờ người thợ khéo đó con,
Tâm gìn đừng để hao mòn,
Làm cho nhơ bẩn thì còn chi không.
Nghiêu, Thuấn giữ nhơn đồng là đó,
Người với ta nào có khác chi,
Thánh Hiền làm đặng khó gì!
Biết nuôi tâm tánh gọi thì Phật, Tiên.
Thi:
Tiên, phàm cũng bởi tại tâm ra,
Tâm vạy thì làm những quỉ, ma,
Tâm chánh còn nuôi thành Thánh đức,
Tiểu nhơn vì bởi mất đi mà.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
22 tháng 9 - Bính Tý (1936)
THAM THIỀN NHẬP ĐỊNH
CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ, Thầy mừng các con.
Đây Thầy giải về: Tham-Thiền Nhập-Định.
Thi:
Tham-thiền tầm lý huệ tâm khai,
Luyện Đạo vận hành tạo Thánh-thai,
Nhập-định gom thần minh trực giác,
Thông công Thiên, Địa phục Như Lai.
Người tu hành cần nhứt là phép tham-thiền đặng tầm cái lý Đạo cao siêu của Tạo-Công đặt bày trên mấy cõi hư linh ngõ cho thấu triệt đến cả cội nguồn nguyên thỉ.
Không tham-thiền định-trí thì làm sao đoạt nổi Thiên cơ, hiểu điều mắc mỏ cho được. Thế nên người tu hay người không tu mà muốn hoát thông sự vật, tham cứu uyên nguyên thì làm sao cũng phải tham-thiền.
Vã lại đã sanh ra đứng làm người mà nếu không hiểu biết cội nguồn nhơn loại, ví như loài người bắt đầu bởi đâu mà có? Có làm chi? Sao lại sanh rồi tử? Tử rồi sanh? Mà cứ mãi mãi, hoài hoài, vương vấn với bánh xe luân-hồi của Tạo-Hóa? Vào chi chỗ trần ai cay nghiệt biển khổ, sông mê, để chịu mang lấy kiếp nặng nề mà luống khổ tâm lao lực, sớm thảm, chiều phiền, rày than, mai khóc. Nếu tự hỏi mình bao nhiêu vấn đề ấy mà chẳng gia công nghiên cứu, tham khảo suy tầm cho tận cùng đáo để, hầu trực giác được cái nguyên lý của Đạo thì há còn phương pháp nào khác nữa đâu? Vậy phương pháp ấy chính gọi là "Tham-Thiền" đó.
Không tham-thiền thì làm sao mở mang trí hóa để đạt cho thấu cái lẻ hư vô huyền diệu. Nhưng phương pháp tham thiền rất là khó lắm. Trước hết cần phải chủ cái tâm vào một tư tưởng nào cho cao thượng, rồi mới lấy cái tư tưởng thanh quang ấy mà nghĩ ngợi cho cùng, xét cho tột thì huệ tâm tự phát, trực giác tự khai, chừng ấy chơn lý nó mới hiện bày ra một cách rõ ràng, minh bạch.
Con người đã sẵn có cái Thiên-tánh đặc biệt của Trời ban phú cho từ lúc mới đi đầu thai, rồi xuống ở thế gian này lại cần phải mượn lấy xác phàm mà kinh nghiệm mọi lẽ của trần để cho lần lần trở nên uyên-bác, hầu tấn-hóa mãi trên con đường đạo-đức vậy.
Vẫn biết thế gian là bể khổ, sông mê, nhưng chính thế gian lại mà một chốn học đường của muôn loài vạn vật. Nhờ học đường ấy mà muôn loài vạn vật mới mở mang trí hóa, sáng suốt tinh thần, để tấn bộ trên nấc thang cao thượng.
Làm người là cần phải học hỏi, có học hỏi mới thông đạt, minh mẫn, mới biết lẽ dữ, điều lành, mới tường đường quấy, sự phải, mà tránh cho khỏi tội tình. Chớ nếu không học hỏi thì điểm linh-quang phải trở nên mê-muội mà người cam dốt nát ngu hèn.
Bao nhiêu những món bày trò ở nơi trước mắt là bao nhiêu những bài học hay ho, hữu ích cho người, bất luận tốt hay xấu, bất cứ dữ hay lành, chi chi cũng có thể làm bài học được. Sự nào tốt đẹp cao siêu, thuần khiết thì nên lấy đó mà làm mẩu mực để luyện trau, rèn đúc tinh thần; việc nào xấu xa, hèn mạt bạo tàn thì nên xem đó như tấm gương soi, để sửa đổi cải canh đức tánh. Cái bước đường lầm lạc đã trải ngày nay tức là cái bài học phòng ngừa khỏi vấp ngày mai. Trên đời nào có cái chi là vô ích bao giờ? Ích hay vô ích là chỉ tại nơi mình biết dùng hay không biết dùng đó mà thôi.
Người tu hành tuy chẳng tầm chương trích cú, tuy không nấu sử, sôi kinh mà cũng có thể rõ thông suốt cả cái lý của đời rất nên đúng đắn. Rõ thông như thế là nhờ nhập định, tham-thiền, rồi được trực giác nơi tâm thì tức nhiên trí huệ quang minh phát triển mà giúp cho thần hồn lẹ thấy, mau nghe, nên không học mà tự-nhiên cũng biết.
Không học mà biết là do nơi cái lương tri, lương năng nó phát lộ được trong tâm thần, làm cho cơ đạt thức phải khai minh sáng suốt.
Vậy nên người tu cần nhứt là phải tham-thiền, có tham thiền mới nghĩ ngợi được đến lý thiên-nhiên của cơ Tạo Hóa mà thấu triệt cái bổn thể hư vô, rồi mới thấy rõ cuộc đời ấy chỉ là trường mộng ảo. Các vật đã la liệt khắp bày trên mặt địa cầu này thì chẳng bao lâu nó thảy phải rã rời, dời đổi chẳng khác nào như mù tan, như sương rã, như khói tỏa, như mây bay, nên cuộc đời nào có vững bền đâu, chỉ là một giấc huỳnh-lương, một cơn hồ-điệp bởi vậy nên mới có câu: "Thế sự vạn bang đô thị giả". Biết vậy rồi tự-nhiên con người mới gắng chí lập tâm, quyết phế bỏ cuộc giả hư, mà mong kiếm tầm nơi chơn thật, hầu có thoát thân ra khỏi chốn mê đồ, trần khổ.
Nhưng hễ muốn tham-thiền cho có kết quả thì phải lo nhập-định cho hẳn hòi. Nhập-định là cốt để cho tâm thần an ổn, nghĩ ngợi, hầu có sửa mình mà trừ khử các bịnh do trong cốt tủy và diệt xong cả mấy mối loạn của thất tình, lục dục khiến xui, khuấy rối đêm ngày. Rồi gom các tư tưởng vào nơi khối óc, đừng cho nó tưởng nhớ bá vơ những điều không tốt, lại rán gắng công tập luyện nó sao cho lần lần trở nên thuần túy tinh anh. Mà phải nuôi cái tư tưởng ấy cho cao thượng, trọn lành mãi mãi, đừng để ngoại vật lẫn vào báo hại tâm hồn xao động. Được vậy rồi mới hồi quang phản chiếu nơi tâm mà thấy cũng như không thấy, nghe cũng thể không nghe, biết cũng dường không biết: Vạn sự thế gian đều không lưu ý vào chi hết ráo.
Hễ nhập-định đặng như vậy thì tham-thiền mới thấy kết quả tốt đẹp phi thường, vì mỗi khi tham-thiền mà trầm tư mặc tưởng vào một vấn đề gì thì các bộ phận, máy móc trong châu thân nó lần lần ngưng nghỉ bớt, mà để cho chơn thần các con xuất ra khỏi xác theo lằn tư tưởng lóng nghe cái lý thiên-nhiên.
Cũng có kẻ tham-thiền mà bị điên cuồng, ngây ngần, ấy cũng tại tham-thiền mà không nhập-định cho an thần rồi tưởng xét quá, làm cho xáo động tâm linh, nên ra đến thế. Nếu rủi bị vậy thì chỉ phải tịnh an cho đúng là tất sẽ huờn phục lại ngay.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng!
22 tháng 9 - Bính-Tý (1936)
LUYỆN ĐẠO
Thi:
NAM bắc cọng hòa Đạo-lý minh,
PHƯƠNG châm thoát khổ luyện tâm linh.
GIÁO truyền cơ nhiệm siêu tam giới,
CHỦ định huờn hư tạo thánh hình.
Đây Thầy giải về thiên: "Luyện Đạo".
Phương pháp luyện Đạo là một phương pháp để đoạt huệ đặng siêu thăng. Người tu hành đã ăn chay mà không luyện Đạo, thiệt là rất tiếc cho những đứa còn mê như thế lắm.
Mà tại sao Thầy lại buộc các con luyện Đạo đều phải giữ tròn ngũ giới cấm? Tại phép luyện đơn là không phải dễ. Nếu các con phạm qui điều, không giữ giới, thì không bao giờ các con tu đắc quả đặng.
Sự ăn chay là bổ cho Tiên-Thiên, còn ăn mặn lại bổ cho Hậu-Thiên. Các con nếu ăn mặn mà luyện Đạo thì Chơn-Thần bị khí Hậu-Thiên làm nhơ bẩn nặng nề mà khó thể xuất ra khỏi vùng trung giới được.
Còn sự dâm dục là một điều quan hệ nhứt cho người tu. Thầy đã nói một nhểu tinh dịch của các con tức là một khối tinh thần. Nên nếu các con để nó chảy lọt ra ngoài chừng trong một nhểu, thì cũng đủ cho các con phải hư hại đến hình hài thể phách rồi, huống chi mấy nhểu tinh rớt lọt ra đó là mấy điểm "tiểu linh-quang". Sau các con chết, chúng nó sẽ kéo đến Nghiệt-Đài mà bắt thường Thiên-mạng, cười . . . Các con phải biết "Thiên-mạng" chớ không phải là "nhơn-mạng" đâu nghe!
Trong xác thân của con người có bảy thể cần yếu là: chơn-dương, tinh, khí, thần, xương, máu và thịt.
Đây Thầy giải về Dương.
Con người sống là nhờ dương-khí nó châu lưu trong thân thể mà nuôi nấng cho các chất yếu cần của nhơn thân. Nên hễ dương-khí khi nào đã tuyệt tức khắc con người phải dứt hơi liền. Vậy người luyện Đạo phải lấy phép hô hấp rồi dụng công phu vận chuyển dương-khí ấy vào châu thân cho tráng kiện thêm và cho thông lưu khắp chỗ để đuổi các khí uế trược, nặng nề ra thì bảo không vĩnh tồn sức khoẻ sao được? Vã người luyện Đạo cũng nhờ chơn-dương ấy mà tạo nên Huệ-Mạng Kim-Cang. Phải dùng hô hấp mà đem khí hạo-nhiên vào chơn thể. Còn tinh, khí, thần là một cơ quan bí yếu của loài người. Có tinh, khí, thần mới tạo thành "Chơn-Đạo".
Thần là chủ nhơn ông, tức là điểm linh-quang của Trời ban cấp; khí là cái khí hư vô để giúp cho cơ thể con người được an nhàn, vô bịnh; mà muốn rõ căn nguyên thần, khí thì phải truy tầm diệu lý Thiên-cơ mới được. Diệu lý Thiên cơ đó là phép chơn truyền mà Thầy đã ban bố cho các con tu luyện ngày nay đó vậy.
Thầy giải về bảy thể của linh-hồn:
Linh-hồn của con người từ ở cõi Bồng-Lai Tiên-Cảnh hoặc Cực-Lạc Niết-Bàn mà muốn đầu thai xuống cõi hạ giới này là cõi thứ 7 thì đã phải trải qua 6 cõi hư linh ở thượng tằng không khí, mà mỗi khi trầm xuống mỗi cõi hư linh thì linh-hồn phải chịu dưới quyền cấu tạo của Tạo-Hóa chi cơ, nghĩa là phải thọ bẫm thần khí ở cõi hư linh đó mà bao bọc thêm ra ngoài một lớp thể chất nữa, mà hễ càng trầm xuống xa chừng nào thì lại càng nặng nề thêm chừng nấy. Khi trầm xuống đến cõi dục-giới này lại còn phải mang thêm một cái xác thân phàm tục trọng trược đủ điều, nhưng cũng nhờ có cái xác thân phàm, đủ đầy tam bửu ngũ hành mà kẻ giác ngộ con đường lành lo tu hành đặng có tấn hóa trở về nguyên vị cũ. Đó là Thầy giải về sự thối-hóa hay tấn-hóa của linh-hồn do luật dinh-hư của Tạo-Hóa. Chí như ngày hôm nay, nhằm thời kỳ Thiên ân đại xá, Thầy giáng trần gieo rải mối chơn truyền để độ rỗi cả toàn linh, tức là Thầy vạch con đường tắt cho Tiên-thể hay Kim-thân của các con về thẳng nơi Thầy, khỏi phải ngưng nghỉ ở mấy cõi hư linh để cỗi cho rồi 7 lớp thể chất bao bọc lấy linh hồn. Thăng.
19 tháng 8 - Bính Tý (1936)
TAM THỪA CỬU CHUYỂN
Thi:
NGỌC chiếu huy hoàng vạn vật minh,
HOÀNG Thiên chuyển hóa độ quần linh,
THƯỢNG thừa tâm-pháp truyền ban thế,
ĐẾ lịnh thi ân nhứt quyện kinh.
Thầy các con. Thầy mừng các con.
Thầy miễn lễ, các con an tọa.
Thi Bài:
Thầy xuống thế kỳ ba khai Đạo,
Đem ba nền Tôn Giáo thuyết minh,
Gây thành chủ nghĩa hòa bình,
Đại đồng chánh lý, Đạo Huỳnh phát hưng.
Quây bánh phép chuyển luân trở lại,
Vớt chúng-sanh khỏi hại luân-hồi,
Tiến hành phục đáo cựu ngôi,
Phá tan tứ khổ, dứt rồi nghiệp duyên.
Chốn sông mê sẵn thuyền cứu vớt,
Nước cam lồ rửa bớt oan khiên,
Muốn làm nên Phật, Thánh, Tiên,
Thì Thầy khẩu khẩu tương truyền cho tu.
Đặng vẹn phá ám mù tục tánh,
Rồi noi theo đường chánh tầm phăng,
Luyện thâu không khí thượng tằng,
Kim-thân xuất hiện đằng đằng khinh thanh.
Có hai lẽ là Lành với Dữ,
Có hai đường là Tử với Sanh,
Biết tu thì đặng chứng thành,
Không tu phải chịu nhọc nhành bại vong.
Tu cũng có đi vòng đi tắt,
Đi tắt là ngộ đắc Thiên-cơ,
Công viên quả mãn đoạt cờ,
Nương theo xá lợi đơn thơ triệu hồi.
Đi vòng cỗi cho rồi thất phách,
Trả quả mà rửa sạch lòng phàm,
Tùy cơ tấn-hóa mà làm,
Vòng quanh khu ốc quét tam tâm tà. (1)
Cao-Đài giáo kỳ ba chánh-giác,
Người chán đời tầm đoạt chơn truyền,
Đại thừa Đạo chánh Tiên-Thiên,
Luyện hồn chế phách đăng Tiên hưởng nhàn.
Trong cửu chuyển phải tàng tâm-pháp,
Phải y hành cho hạp phép tu,
Ăn ở theo lẽ hạp phù,
Trước tua vẹt phá ám mù cho tan.
Làm Tiên, Phật phải tàng cơ nhiệm,
Phải tham-thiền mà kiếm lý minh,
Nhứt là dưỡng khí, tồn tinh,
Tinh khô, khí tận, thần linh chẳng còn.
Sơ Nhứt Chuyển lo tròn luyện kỹ,
Xây đắp nền thần khí giao thông,
Diệt trừ phiền não lòng không,
Thất tình, lục dục tận vong, đơn thành.
Tâm Đạo phát thanh-thanh tịnh-tịnh,
Dưỡng Thánh-thai chơn bỉnh Đạo Huyền,
Ngày đêm cướp khí hạo nhiên,
Hiệp hòa tánh mạng, hống diên giao đầu.
Sang Nhị Chuyển diệu mầu ứng lộ,
Bế ngũ quan Tứ Tổ qui gia,
Âm dương thăng giáng điều hòa,
Huân chưng đầm ấm tam hoa kiết huờn.
Khai cửu khiếu kim-đơn phanh-luyện,
Vận ngũ hành lưu chuyển Càn-Khôn,
An nhiên dưỡng dục chơn hồn,
Làm cho cứng cát, lớn khôn diệu huyền.
Đến Tam Chuyển Hậu-Thiên ngưng giáng,
"Nhứt Bộ" thành Ngọc Bảng đề danh,
Công phu khử trược lưu thanh,
Linh đơn một phẩm trường sanh muôn đời.
Qua Tứ Chuyển cơ Trời phát lộ,
Thoát ngoài vòng tứ khổ trần ai,
Gom vào tư tưởng trong ngoài,
Luyện phanh trong sạch Thánh-Thai nhẹ nhàng.
Ngũ Chuyển Đạo thông tàng cơ nhiệm,
Ngồi định thần tầm kiếm căn nguyên,
Xuất thần lên cảnh Thần Tiên,
Học thêm tâm-pháp bí-truyền cao siêu.
Lần Lục Chuyển tam diêu bất động,
Tâm vô-vi trống lổng căn cơ,
Bụi trần không thể đóng dơ,
Linh đơn hai phẩm giựt cờ Thánh, Tiên.
Thất Chuyển pháp hạo nhiên chi khí,
Luyện Chơn-Thần qui vị hưởng an,
Linh-Sơn nở búp sen vàng,
Cỗi rồi bảy thể nhẹ nhàng biết bao.
Bát Chuyển đức thanh cao thấm nhuận,
Đến bực này thì chứng Kim-Tiên,
Không không, không hậu, không tiền,
Không hay, không biết, không phiền não an.
Lửa cung Ly nấu vàng cung Khảm,
Lọc âm dương hai tám thành cân,
Hồn còn nương náu xác thân,
Nhưng không dính líu bụi trần vào thân.
Cửu Chuyển đắt Lôi-Âm an hưởng,
Mặc vui chơi bốn hướng ba nhà,
Rượu cờ vui thú sen hoa,
Đào Tiên chung cuộc điều hòa cảnh không.
Phép Tiên, Phật thần thông vô lượng,
Ứng hóa linh cao thượng toàn năng,
Quí thay cảnh báu chi bằng,
Nghêu-ngao khiển-hứng gió trăng khó lường.
Thầy chỉ sơ con đường "Trung-Đạo",
Đạo trung hòa Thánh-Giáo phát minh,
Trung là nguồn cội nhơn sanh,
Không chinh, không đảo chung quanh qui về.
Trung là cốt không xê chẳng xít,
Trung là không lúc ít hồi nhiều,
Trung bình bằng thẳng một chiều,
Vật chi không khỏi ngoài điều cái trung.
Không thái quá, không dùng bất cập,
Giữ bực thường bồi đắp thiện căn,
Lương tri lại với lương năng,
Mở mang trí hóa Đạo hằng luyện tu.
Hòa âm dương thượng phù ngưng giáng,
Kết lại thành hình dạng chúng-sanh,
Âm dương phản đối vận hành,
Huân chưng đầm ấm hóa sanh muôn loài.
Người luyện Đạo đừng sai Thánh huấn,
Mà để làm triệu chứng đơn kinh,
Người tu trước phải dọn mình,
Cho thanh bạch tượng, cho tinh sạch lòng.
Giữ ngoài rồi gìn trong đúng đắn,
Để cho tâm an lặng không không,
Ấy là thần khí giao thông,
Càn-Khôn thăng giáng, cọp rồng xuống lên.
Pháp Cửu Chuyển là nền thanh khiết,
Thoát luân-hồi đoạn diệt oan khiên,
Còn chi nghiệp quả nối chuyền,
Tâm không đắc Phật, thành Tiên tại trần.
Thi:
Trần ai đày đọa biết bao hồn,
Sóng dục đời người chịu lấp chôn,
Nặng nghiệp oan khiên nhồi quả kiếp,
Tùy cơ tấn bộ mới là khôn.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
Chú thích:
- Tam tâm là: Tâm quá khứ, Tâm vị lai, Tâm hiện tại.
18 tháng 9 - Bính Tý (1936)
DƯỠNG SANH TÁNH MẠNG
Thi:
CAO đại hư vô quán nhứt trung,
ĐÀI liên cửu phẩm hóa thiên trùng,
BỒ đề tâm niệm minh minh đức,
TÁT Đạo thâm vi dụng đại hùng.
Thầy các con. Thầy mừng các con.
Thi:
Dưỡng dục muôn loài trở lớn khôn,
Sanh linh giác ngộ bảo chơn hồn,
Tánh cùng Thiên-lý thông cơ Đạo,
Mạng lịnh Thầy truyền diệu pháp môn.
Đây Thầy giải qua "Dưỡng Sanh Tánh Mạng".
Thầy lập Đạo tại xứ Nam này nhằm thời kỳ cuối cùng của nhơn loại. Các con ôi ! vách tường sắp đổ, nạn khổ hầu keଠThầy há nở điềm nhiên tịnh tọa để xem cho bầy con sắp phải tận vong tiêu diệt sao? Thế nên Thầy không nài gay-khổ nhọc-nhằn đem mối Đạo mà cứu vớt các con trong hồi khẩn cấp này.
Các con khá biết: Đạo có ba nguơn, ba nguơn ấy là cái số cuối cùng của Trời, Đất. Trước hết mở đầu là Thượng Nguơn. Thượng nguơn đây chính là "Nguơn Tạo-Hóa" , là ngươn đã gầy dựng cả Càn-Khôn Võ Trụ. Vậy khi mới tạo Thiên lập Địa, nhơn loại sanh ra thì tánh chất con người rất đổi hồn-hồn ngạc-ngạc, còn đang thuần-phát thiện-lương, nên chi cứ thuận tùng Thiên-lý mà hòa hiệp dưới trên, tương thân tương ái. Thời kỳ ấy người người đồng hấp thụ khí thiên-nhiên, nên hằng cọng hưởng thanh nhàn khoái lạc mà vui say mùi Đạo tháng ngày. Bởi đó đời thượng cổ mới có danh là đời "Thượng-Đức", mà Thượng-Nguơn ấy cũng kêu là nguơn "Thánh-Đức" nữa.
Kế đó bước qua Trung-Nguơn thì nhơn tâm bất nhứt, tập quán theo thói đời, thâm nhiễm những nết xấu mới làm cho xa mất điểm thiện lương, bèn cậy ở sức mình mà hiếp bức lấy nhau, chém giết lẫn nhau, tương sát, tương tàn, mạnh còn yếu mất thì mới sanh ra biết bao trường huyết chiến, không còn kể đồng loại, đồng chủng, đã lợt tình đồng nghĩa, đồng bào. Bởi đó đời trung cổ mới có danh là đời "Thượng-Lực", mà Trung-Nguơn ấy cũng kêu là nguơn "Tranh Đấu" nữa.
Tiếp đến Hạ-Nguơn, sự tranh đấu ngày càng ráo riết, dữ tợn, gớm ghê thì nhơn loại lại chê sức mạnh mà dùng não cân nên mới bày ra chuớc quỉ, mưu tà, kế sâu, bẩy độc, thiệt là khốc liệt phi thường. Xong đó cũng lẽ tự-nhiên, càng tranh đấu mới càng tấn-hóa. Ngặt càng tranh đấu lắm lại càng ác liệt lắm, nên tranh đấu thét phải đến ngay thời kỳ tiêu diệt. Bởi đó đời hiện tại là đời "Mạt-Kiếp", còn Hạ-Nguơn này là nguơn "Điêu Tàn".
Nhưng hễ loạn là tới trị, vong tất phục hưng, nên ngươn tiêu-diệt tất sẽ bước đến nguơn bảo-tồn là nguơn Đạo-đức phục hưng, để sắp lập lại như đời thượng-cổ, thế nên cũng gọi là ngươn "Tái-Tạo".
Vậy nhơn loại bước qua thời kỳ này là thời kỳ qui nhứt thống, đại luân-hồi của Thiên Địa đó. Mà ngày nay đã đúng số nhứt định của Tạo-Đoan, đã tới nguơn cuối cùng của Thiên Địa, vì tính ra thì đã mười hai vạn chín ngàn sáu trăm năm, nên đã tới thời kỳ tạo Thiên lập Địa một lần nữa.
Các con, ngày nay Thầy đã đến đây rồi là Thầy muốn ngửa tay ra mà tế độ các con. Vậy các con phải nương níu lấy Đạo mầu, rán luyện chơn tánh cho thuần-dương thì ắt tránh khỏi cuộc dinh-hư tiêu-trưởng của đời sắp đến, nghe các con!
Vã sự tu hành là phương giải thoát cuộc đời khốn nạn khổ tân, nên người quân tử hằng chú trọng về tinh thần mà cố gắng trau giồi Đạo-đức. Các con phải biết rằng hễ muốn cho Chơn-Thần đặng tinh khiết thì phải giữ gìn thân thể cho tráng cường, muốn dưỡng phần hồn tất phải nuôi phần xác. Bởi thế các con chẳng nên trọng vô mà bỏ hữu, hay là trọng hữu bỏ vô. Hữu, Vô phải nương níu với nhau cho mật thiết mới được. Phép tu phải đừng ép xác hủy mình, vì hễ xác phàm mà khương kiện thì linh-hồn mới đặng thông huyền.
Đây Thầy chỉ sơ sự "Nuôi Thần Hồn" cho các con rõ.
Phật-Giáo chú trọng về "Hư-Vô Tịch-Diệt", để nuôi lấy tâm thần, nên dùng phép thiền-tọa mà gìn lòng, không cho xao động.
Tiên-Giáo thì thích sự "Thanh-Tịnh Vô-Vi" để tự-nhiên tùy tùng Thiên-lý, cứ mãi gom thần, định trí cho đến chỗ yểu yểu minh minh, quyết không để cái tâm lưu luyến hồng trần mà trợ lực cho thất tình, lục dục dấy lên làm quấy.
Còn Nho-Giáo lại là "Tồn-Tâm Dưỡng-Tánh" chỉ tịnh-tọa mà bảo dưỡng cho còn cái tâm lạc thiện, háo đức, cái tánh tiết độ cao siêu.
Ấy vậy, nay các con nếu muốn dưỡng trau phần hồn cho thanh khiết thì cốt nhứt là đừng để tâm thần lay động, phóng túng ra ngoài, mà cần giữ sao cho tự-nhiên, yên tịnh luôn luôn mới được.
Vã trong thân thể con người thì có chi báu trọng, cao quí, yếu cần bằng cái Lương Tâm, nên Lương Tâm ấy ví không còn nữa, ví đã tán tận đi rồi thì con người còn chi báu nữa đâu? Mà con người dường ấy tất có khác gì kiến, bọ, dế, trùng ! Sống kia như chết, có cũng bằng không. Hởi ôi là khổ!
Vậy nay Thầy đã truyền giáo cho các con, các con phải ghi nhớ lấy lời Thầy dạy, rán lo dưỡng tánh, tu tâm lắm lắm mới nên. Hễ muốn cho linh-hồn trong sạch, nhẹ nhàng thì các con hằng ngày phải cần tập tánh cho thiệt Không Không, đừng ghen ghét, giận hờn, buồn lo, sợ sệt chi chi hết ráo, để nuôi lấy tư tưởng cho thanh cao, phải ép kềm cái ý muốn của mình chớ để nó chấn động dấy bừng mà làm điều sái quấy.
Lại trong thân thể con người cũng phải chia ra phần nào lớn và phần nào nhỏ, đặng nuôi lớn bỏ nhỏ, cho lớn khỏi mất quyền mà nhỏ đừng lấn thế. Chớ nếu bơ thờ lại để cho phần nhỏ lẩy lừng, ép đè phần lớn, tất là hại khốn chẳng vừa. Vậy phần lớn ấy là cái Lương-Tâm, còn phần nhỏ ấy là Tai với Mắt.
Lương-Tâm ấy chính là Thần Minh của Trời Đất đã phú ban cho, còn tai mắt lại là mối giặc của lương-tâm mới khổ. Vậy các con nếu để cho tai mắt nó diêu động cái tấm lòng dục vọng mà chôn lấp lương tâm, rồi dằn chận xuống dưới năm hòn "ngũ trược" , thì ôi thôi! há có dễ gì đào bới xốc giở nó lên mà đem cái lương tâm ra khỏi được đâu.
Bởi vậy làm người là cần phải chủ lấy cái tâm cho lắm, đừng vọng niệm, chớ tà tâm, chẳng ghét ganh, không thù oán, cứ miễn sao cho tâm chí mãi được yên vui là quí nhứt. Dĩ gì miếng ngon, của quí mà hại lấy thần hồn. Tham chi sắc đẹp, mùi thơm mà lấp chôn linh tánh.
Lại tu cũng cần phải cử-kiêng vật thực hằng ngày cho chính mới nên. Đã biết ăn cho ngon miệng mới nuôi được thân phàm, song nuôi thân tuy béo mà hại đến linh-hồn thì sao? Bởi vậy như loài ngũ-huẩn là loài ăn vô có thể làm cho yếu ớt linh-hồn thì lẽ nào không cử.
Còn bốn vách của đời là sắc, tài, tửu, khí, mà người tu nếu hễ mang vào thì thôi có mong chi siêu rỗi nữa.
Sắc hễ gần rồi thì thần hồn hôn muội.
Tài hễ máng đến thì tâm chí lo ra.
Tửu hễ sai mê thì kim-đơn hư hỏng.
Khí hễ còn vướng thì xá-lợi tiêu tan.
Mà cái độc nhứt chỉ là cái GIẬN, vì các con, dầu công phu đến mấy chục năm, song các con nếu để cho lửa giận một phen bừng cháy thì cũng đủ thiêu đốt kim-đơn phải rả tan ra nước hết trơn.
Thậm chí những vật tầm thường như: thuốc, trầu mà không bỏ, tất cũng có hại cho kim-đơn nữa đó. Thế nên các con khá rõ mà dè-dặt tiểu-tâm vậy.
Trường Thiên
Ba nguơn cũng sắp cuối cùng,
Đất, Trời, Nhơn, Vật phải tùng Thiên-cơ.
Dinh hư tiêu trưởng đến giờ,
Con thuyền Bát-Nhã sẵn chờ rước đưa.
Phật Tiên đương lúc lọc lừa,
Độ người căn kiếp thượng thừa bước lên.
Người lo xây móng đắp nền,
Móng nền cứng cát vững bền muôn thu.
Làm sao mà gọi rằng tu?
Tu thì như thể đứa mù đi đêm.
Khó khăn con chớ t?ềm,
Tâm hồn thanh-tịnh mỏng-mềm nhẫn-kiên.
Tu như giống một kẻ ghiền,
Như người mê sắc, như siêng làm giàu.
Bước lần từ thấp đến cao,
Ngày đêm luyện tập dồi dào tâm linh.
Đừng cho kẻ thế thị khinh,
Các con nên phải quên mình là chi.
Mặc tình những tiếng thị phi,
Khó khăn khảo đảo chịu lỳ mà tu.
Làm tuồng như thể đứa ngu,
Khờ khờ tai mắt giả mù không nghe.
Mùi đời chát ngắt chua lè,
Mùi Tiên nếm đặng, không the, ngọt bùi.
Tu là thật sự mà vui,
Chuyện chi gay cấn cũng xuôi cho rồi.
Muốn cho thoát khổ luân-hồi,
Thì nay lập chí trau giồi linh-căn.
Dễ là uốn lúc còn măng,
Sớm khuya đào luyện giữ chăn chớ lìa.
Đặng vầy thanh sử tạc bia,
Ôi con! khóa chặt không chìa thì sao?
Chìa đây Thầy sẽ sắp trao,
Trao mà chọn lựa con nào chí tâm.
Muốn tu thì phải đi tầm,
Tầm đường chánh-giác cao thâm mới tài!
Ngày nay Thiên-Đạo hoằng khai,
Qui nguyên Tam-Giáo Cao-Đài chấn hưng.
Bẩy dò nhiều lắm coi chừng,
Lầm mưu vô ý sỉa chưn sụp giò.
Đạo Trời khó dễ lường đo,
Lấy ngao lường biển để cho mãn ngày.
Thời kỳ nhơn vật đổi thay,
Nên chi Thầy mới ra tay độ hồn.
Thầy là Chúa cả Càn-Khôn,
Nhưng không thể sửa phép công Thiên điều.
Thấy con phạm tội rất nhiều,
Thương con xuống thế dắt dìu các con.
Đông phương hồng phước cũng còn,
Nên chi Tiên, Phật chìu lòn độ nhơn.
Đạo đời hai lẻ nào hơn?
Chí tâm quân tử chớ sờn dạ tu!
Chuyên cần đào luyện công phu,
Cho thuần Đạo-đức nhẫn nhu ôn hòa.
Song tu tánh mạng cho già,
Âm tiêu dương thới mới là siêu thăng.
Khuyên đừng lầm lỗi ăn năn,
Để tâm thanh tịnh mót cằn quả công.
Làm cho thần khí giao thông,
Hồi quang phản chiếu cọp rồng xuống lên.
Sự chi phải giả đò quên,
Rèn lòng tu luyện mà đền tội xưa.
Đã vào thọ pháp Đại-Thừa,
Làm sao hạnh đức cho vừa chúng-sanh.
Tánh tâm tập lấy gương lành,
Trí tri cách vật cho rành phận ta.
Dưỡng sanh tánh mạng diềm dà,
Cử kiêng cho hợp theo mà vệ sanh.
Tâm Đạo tịnh tịnh thanh thanh,
Cướp cơ Tạo-Hóa vận hành hạo nhiên.
Làm cho khí tụ đơn điền,
Làm sao hống kết với diên thai thành.
Muốn cho hạp với dưỡng sanh,
Tu luyện tánh mạng cao thanh thiện từ.
Trời lập đảnh, Đất an lư,
Xây lò Bát-Quái huyền-hư tâm thành.
Thi:
Thành Đạo là nhờ một cái Tâm,
Tâm linh giác ngộ khỏi sai lầm,
Lầm đường ma quỉ không phương thoát,
Nhiễm thói hung hăng hóa thú cầm !
* * *
Cầm cân Tạo-Hóa rất công minh,
Lành thưởng phước ban, dữ phạt hành,
Một mảy không ly, đời tưởng dễ,
Nạn tai dường ấy cũng chưa kinh.
* * *
Chưa kinh sợ cứ họa gây hoài,
Khuyên bảo dường như nó đã chai, (cười . . .)
Đạo-đức giả lơ không biết tới,
Sắc tài bàn đến thật là hay.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
23 tháng 9 - Bính Tý (1936)
VŨ TRỤ
Thi:
CAO xanh dòm thấy cuộc đời xiêu,
ĐÀI ngọc lìa ngôi xuống dắt dìu,
THƯỢNG giới vĩnh tồn nhàn lạc Đạo,
ĐẾ quân cứu thế buổi thời tiêu.
Thầy các con. Thầy mừng các con.
Buổi đời bá Đạo cạnh tranh, xúm cấu xé giựt giành, đua nhau trong trường đời mộng ảo, nhơn tình sôi nổi, thế sự đổi thay, biết bao nhiêu nông nổi trong cuộc đời, Thầy không thể ngơ tai cho đành dạ.
Thi:
Nhơn tình sôi nổi lắm chua cay,
Dòm thấy khổ ương nhíu mặt mày,
Hoàn cảnh nguy nan lôi cuốn mãi,
Tai Trời chung chịu đổi dời thay.
Đây Thầy giải về thiên: Vũ-Trụ (Luận qua mấy cõi Hư-Linh).
Thi:
Một bầu Vũ-Trụ rộng thinh thang,
Mấy cõi Hư-Linh cảnh lạc nhàn,
Pháp nhiệm Tạo-Công bày sắp đủ,
Lập thành Đạo-đức dựng cơ quan.
Sao kêu là Vũ-Trụ, các con biết chăng?
Khắp cả Càn-Khôn Thế-Giới là Vũ, cùng chỗ Vũ kêu là Trụ. Vũ nghĩa là trùm cả bốn phương và trên với dưới. Trụ cũng có nghĩa là xưa nay qua lại, nên trong chữ Vũ-Trụ nó có gồm cái nghĩa cả không gian và thời gian.
Trước khi chưa định ngôi Thái-Cực thì trong khoảng không gian ấy còn đương mịt-mịt mờ-mờ với khí Hồng Mông, vì đó là còn trong thời kỳ bổn nguyên vậy.
Không gian ấy tức là Vô-Cực. Trong Vô-Cực ấy lại có một cái nguyên lý Thiên-Nhiên tuyệt diệu, tuyệt huyền, rồi lại có thêm một cái nguyên khí tự-nhiên nữa. Lý với Khí ấy tức là Âm với Dương trong buổi Hồng-Nguyên thời đại. Lý, khí ấy lại lần lần ngưng kết với nhau mà đông tụ lâu đời nhiều kiếp mới thành ra một khối tinh quang rất đủ đầy các sự tốt đẹp. Chừng đúng ngày giờ khối ấy mới nổ tung ra một tiếng vang lừng dữ dội phi thường, làm cho rúng động cả không gian, bèn có một điểm linh-quang từ trong tiếng nổ ấy văng ra mà lẫn lộn quây quần giữa chốn không trung, dang tủa hào quang rất chiếu diệu rạng ngời, trùng trùng điệp điệp, rực rở chói lòa khắp cả mọi nơi. Ấy chính là ngôi Chúa-Tể của Càn-Khôn Vũ-Trụ đã biến hóa ra vậy: mà Vũ-Trụ từ đây mới bắt đầu có ngôi Thái-Cực trọn lành, trọn tốt, toàn tri, toàn năng, thiên biến, vạn hóa, vô tận, vô cùng, nắm trọn quyền hành, thống chưởng cả Càn-Khôn Vũ-Trụ, và lấy cơ thể âm dương mà phân thanh biện trược, làm máy động tịnh để gom tụ cái Hư Vô đặng hóa sanh muôn loài vạn vật.
Máy âm dương ấy cứ vần vần xây chuyển, không ngừng nghỉ một giờ khắc nào mà dưỡng dục chúng-sanh, bảo tồn Thiên Địa.
Khắp trong Vũ-Trụ biết bao là quả linh cầu, có quả trược quả thanh, có bực cao bực thấp, có cái sáng cái tối, thảy thảy đều tuân theo máy Thiên-cơ mà tuần tự chuyển luân xây chạy, cái lại, cái qua, cái lên, cái xuống, không bao giờ ngừng nghỉ đặng.
Linh cầu nào cao thanh, khinh phù thì vượt qua mấy cõi khác mà lên ngất trên thượng tằng không khí. Vậy quả địa cầu của các con đây tuy là một quả địa cầu vật chất, hữu hình, trọng trược, song cũng còn thuộc về bực khá, chớ dưới nữa lại còn lắm quả địa cầu còn trọng trược hơn nữa. Những quả địa cầu như thế thì nó nặng trầm chìm tột dưới đáy sâu của Vũ-
Trụ, nên rất tối tăm, mờ mịt, âm khí nặng nề, thảm sầu buồn bã, gớm ghê; để đày đọa các linh-hồn nào bị phạm tội ở thế gian xuống đó.
Những cõi ấy mà linh-hồn nào phải rủi ro bị đọa lạc vào thì càng ngày càng thêm mê-muội, tối tăm mãi mãi. Ôi! Khốn khổ biết bao: Thầy khó tả ra cho hết những sự đọa đày trả quả của các linh-hồn phạm tội phải cam chịu trong mấy cõi ấy.
Cõi ấy là chi? Là cõi Diêm-Phù, mà bên Phật Đạo thường gọi Âm-Ty hay miền Địa-Ngục.
Nhưng cõi Diêm-Phù tuy là nơi các linh-hồn phạm tội phải chịu khổn-nguy hành phạt đến đều, thế mà đối với lủ quỉ ma thì những hồn bị đọa ấy lại còn hữu phước hơn chúng nó nữa. Vì sao vậy?
Vì con người hễ khi làm mất hết chơn-dương thì tất phải thuần-âm, mà người đã thuần-âm tuyệt-dương là tất phải chết, mà chết như vậy thì tất phải làm ma làm quỉ, chớ không được nhập vào một thế-giới nào mà an nghỉ hết, dẫu thế-giới ấy là nơi Diêm-Phù cũng vậy.
Đã không được nhập vào thế-giới nào thì lũ quỉ ma ấy chỉ phải nương tựa gió mây mà chờ ngày tiêu diệt thôi.
Và không nhập vào thế-giới nào được là cũng chỉ tại chúng nó đã làm cho tiêu mất hết cả phần chơn-dương của chúng nó rồi. Chớ như các linh-hồn phạm tội, tuy vậy chớ còn được chút ít chơn-dương, vì còn chơn-dương nên còn nhập vô cõi Diêm-Phù mà chịu hình phạt được, mà hễ còn chơn-dương thì lại còn mong mỏi có ngày sẽ đầu thai trở lại được nữa. Bởi vậy tuy thọ hình trả quả nơi Diêm-Phù mà còn có phước hơn là làm ma làm quỉ.
Còn mấy cõi trên đây một chút thì là nơi các linh-hồn ít tội lỗi một khi bỏ xác thịt nầy được về đó nghỉ an một lúc, rồi chờ ngày chuyển kiếp đầu thai.
Các con hãy xem ở dưới đây thì rõ:
Thi Bài:
Khắp trong Vũ-Trụ Càn-Khôn,
Một ngôi Chúa-Cả Chí-Tôn nắm quyền.
Trên cai tam-thập-lục Thiên,
Cả trong chư Phật, Thánh, Tiên phục tùng.
Thần thông biến hóa vô cùng,
Đức ân vô tận, thỉ chung nhiệm mầu.
Dưới bảy-hai quả địa cầu,
Quản cai thưởng phạt người hầu tỉnh mê.
Thế gian cõi trược nặng nề,
Linh-hồn phải chịu trăm bề gian nan.
Có chi bền bỉ vững vàng,
Quí là xác thịt còn tan nát liền.
Sao bằng mấy cõi thiêng-liêng,
Linh-hồn an ổn nghỉ yên đời đời.
Trách sao khỏi cuộc đổi dời,
Người noi Đạo-đức cơ Trời thuận theo.
Mỏi mong trọn kiếp hiểm nghèo,
Lìa trần hồn khỏi lộn mèo thở than.
Dựng nên cõi tạm thế gian,
Làm trường tấn-hóa cho hàng chúng-sanh.
Biết lo bỏ dữ làm lành,
Chơn linh sau đặng rỡ thành cõi trên.
Nhưng chưa chắc hẳn vững bền,
Tái sanh lại thế đắp đền lập công.
Trải qua mấy cảnh hư không,
Càng cao càng thấy trắng trong nhẹ nhàng.
Tùy theo công quả trần gian,
Chết rồi Trời, Phật thưởng ban chỉ phần.
Thăng bằng họa phúc có cân,
Không hề sai chạy một phân đặng nào.
Các con Thầy nhốt trong rào,
Luật công thưởng phạt mảy hào chẳng sai.
Bầu Trời Thầy nắm trong tay,
Dẫu cho xa chạy cao bay ngỏ nào.
Biết phương tầm nẻo mà vào,
Cướp cơ Tạo-Hóa luyện trau tinh thần.
Người còn một cái chơn thân,
Nên lo bồi bổ lần lần lại con.
Đừng cho tan rã hao mòn,
Thì ngôi vị cũ vẫn còn y nguyên.
Luận qua bí pháp tâm-truyền,
Cho đời rõ thấy Đạo Huyền cao siêu.
Luyện thành huệ mạng tiêu diêu,
Muôn đời ngàn kiếp không siêu đảo mà.
Tại sao có quỉ có ma?
Quỉ ma trước bởi người ta tội nhiều.
Chết rồi mới hóa tinh yêu,
Không nơi nương dựa máng điều tai ương.
Thân người thì bán âm dương,
Có trong có đục Đạo thường chuyển xây.
Biết tu luyện mãi đêm ngày,
Làm cho tam bửu đủ đầy hòa minh.
Trau giồi cơ thể hữu hình,
Cho trong sạch cái thân mình Đạo-tâm.
Lần lần tuyệt hết phần âm,
Thuần dương thì đặng cao thâm trở về.
Còn người nào mắc tánh mê,
Cả đem âm khí nặng nề vào trong.
Tinh thần tiêu tán không xong,
Khí dương đã tuyệt khó mong sống đời.
Nên chi hồn xác rã rời,
Tại chưng làm mất khí trời muội hôn.
Âm thần thành quỉ âm hồn,
Thành ma khuấy phá làm khôn với đời.
Dựa vào đồng cốt gạt chơi,
Xưng cô, xưng cậu dối đời kiếm ăn.
Độc hung bắt buộc lăng xăng,
Những người mê tín nghe xằng thì tin.
Chọc người ghẹo chúng sợ kinh,
Nương theo mây gió ẩn mình lánh tai.
Sao mà chẳng chịu đầu thai?
Đầu thai đâu đặng Như-Lai mất rồi!
Ngặt vì không có vị ngôi,
Biết đâu trú ngụ qua hồi tai ương . . .
Tại làm mất điểm chơn-dương,
Thành ra phải chịu trăm đường chông gai.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
25 tháng 9 - Bính Tý (1936)
ĐỊA CẦU 68
Thi:
CAO thanh tuyệt đối lý hư vô,
ĐÀI bảng nêu danh của tín đồ,
TIÊN dược phá mê trần mộng ảo,
ÔNG nào mất Đạo chết phơi khô. (Cười . . .)
Thầy mừng các con. Các con ngồi nghe dạy:
Tu sao cho linh-hồn tinh tấn, trực giác quang minh thì phẩm vị Thần Tiên không khó.
Đây Thầy luận qua quả "Địa Cầu 68" của các con nó gần ngày tiêu diệt.
Thầy không nở để cho các con chung chịu vùi lấp trong cuộc tang thương nên phải giáng thế độ đời, thả Linh Thoàn đưa về Bồng-Lai Tiên-Cảnh.
Cái quả Địa-Cầu của các con ở đây nó gần đúng thời kỳ tan rã, ấy là Thiên-Thơ Thầy định trước ngày giờ, mà cũng vui cho các đẳng chúng-sanh được trổi bước lên một nấc thanh cao vọi. Hễ thế-giới này tiêu diệt thì linh-hồn nhân loại tấn-hóa sang quả Địa-Cầu 67 là nơi tiền định của Đạo mầu.
Thầy mới đến đây lần chót mà đem các con sang qua thế-giới nhẹ nhàng, còn những đứa mê-muội, ngỗ ngang, tội tình thì lại bị tiêu tan ra gió bụi. Các con phải có ngày tận tuyệt. Đứa nào thuận theo Thiên-cơ biết Đạo-đức thiện từ thì Phật, Tiên chực rước, còn đứa nào cả ác độc, trược trần khó mà an thân ngày chót.
Nạn tiêu diệt lẻ nào? Các con có biết chăng?
Một ngày kia, những con nào biết Đạo-đức, ăn chay lạc, thân thể nhẹ nhàng hiệp với khí Tiên-Thiên thì lúc dương sanh mới có thể chịu nổi với khí ấy mà còn vững vàng sống đặng; Còn những đứa vô Đạo bị cả khí Hậu Thiên nên tới ngày âm tuyệt dương sanh ấy, chúng sẽ không bao giờ hứng chịu nỗi khí chơn-dương, nên phải dứt hơi lìa mạng.
Vậy thì ngày nay thế-giới đã đúng luật tuần huờn, Thầy đến đặng sẽ đem các con vào một thế-giới khác mà cho an nghỉ hầu tầm cơ siêu xuất đến cảnh Thần Tiên. Các con chẳng nên tin lời ấy là dị đoan, một ngày kia sẽ co鮼o:p>
Thi:
Thái-Cực lâm trần buổi Hạ Nguơn,
Giơ tay độ chúng lại đường chơn.
Con nào thấu đáo cơ mầu nhiệm.
Thấy vậy không lo lại biếng lờn.
Thăng.
25 tháng 9 - Bính Tý (1936)
THIÊN-ĐÀNG * ĐỊA-NGỤC
CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ, Thầy mừng các con.
Đây Thầy giải về chương: Thiên-Đàng và Địa-Ngục.
Thiên-Đàng, Địa-Ngục cách nào? Các con ôi! Hễ cái tâm sáng suốt, thiện từ, Đạo-đức là Thiên-Đàng, còn tâm mê-muội, vạy tà, hung bạo là Địa-Ngục. Vậy thì Địa- Ngục, Thiên-Đàng cũng chỉ tại "Tâm".
Theo thế thường các con hiểu, thì Thiên-Đàng là cảnh tuyệt mù trên cõi hư vô, là nơi cực kỳ tráng lệ, tinh xảo an vui, còn Địa-Ngục là ở dưới Đất.
Nếu các con cho Địa-Ngục là ở dưới đất thì lầm lắm. Trong trung tâm Trái Đất chỉ toàn là lửa không, còn bốn phương thì phân ra gió, mưa, nóng, lạnh. Vã trong Vũ-Trụ này có biết bao nhiêu là quả địa cầu, những quả khinh thanh thì vượt nổi lên trên mà hưởng lấy khí dương rất đổi nhẹ nhàng, sáng suốt, còn những trái trọng trược thì lặn chìm xuống dưới mà bị lấy khí âm rất nên đen tối, u minh. Vậy nếu các con, hoặc đã phạm tội với Trời, hoặc mang đại ác với người, thì linh-hồn tất phải bị đọa xuống nơi mấy quả địa cầu mà âm khí nặng nề, khốn nạn ấy để chịu buồn rầu, khổ cực, nhức nhối tâm hồn, xốn xang trí não. Đó là nhơn quả, nghiệp chướng, oan gia của các con đã tạo gieo, nó theo các con mà hành phạt lấy các con chớ không có cưa xẻ, trừng trị như theo các con hiểu lầm của người ta thường gọi là Thập-Điện Diêm-Vương đâu. Còn linh-hồn nào trong sạch thì đặng nhập vào cõi hư linh hay là đặng chung lộn với người trên dương-khí mà lo giúp đỡ cho thế gian chờ ngày đoái công thục tội, hay là học thêm cho tấn-hóa đến cảnh trí huệ quang minh. Lại khi các con đã bỏ xác phàm thì linh-hồn xuất ra về trú tại miền Trung-Giới, nơi chốn Hư-Linh, chờ ngày các con phải đến tại trước Tòa Phán Xét mà chịu lãnh những tội tình, đi đầu thai trả quả, còn đứa nào có phước đức nhiều thì trở lại thọ hưởng hồng ân Thầy ban đáp cho.
Trường Thiên
Vẹt màn hắc ám chúng-sanh,
Tầm ra chơn lý hiệp thành Thiên nhiên.
Đạo mầu hoằng hóa ban truyền,
Phá mê phong tục dựng giềng Đạo Cao.
Thói đời mê tín biết bao,
Nghe không suy nghĩ a nhào mà tin.
Bởi còn một nỗi vô minh,
Nên chưa giác ngộ Đạo-Huỳnh tu tâm.
Biết bao nhiêu sự sai lầm,
Dị đoan bày đặc người thâm thúy rồi.
Bóng chàng, đồng cốt gạt đời,
Xưng hô Thần Thánh dối lời giả mang.
Ứng vào nói chuyện mơ màng,
Làm cho phong hóa tồi tàn ngẩn ngơ.
Người mê nghe chẳng kịp ngờ,
Tưởng tin nhảm nhí cúng thờ quỉ ma.
Kiết hung ta chác lấy ta,
Linh không tự ngã, chánh tà do tâm.
Vẹt mây lố bóng trăng rằm,
Biết tu phải biết kiếm tầm Lý Chơn.
Nghĩ coi mọi lẽ nào hơn,
Nên thờ, nên kính, đáng lờn, đáng chê.
Tầm đường giác, tránh đường mê,
Phượng thờ chi lắm bộn bề tưởng tin.
Truy ra nguyên bổn của mình,
Tại đâu mà có, mà sinh hóa vầy?
Chắc rằng có lý chi đây,
Mới sanh hóa đặng dựng gầy thế gian.
Tưởng sao một cách rõ ràng,
Chủ tâm vào lý minh quang ngưỡng sùng.
Trời là một đấng Cha chung,
Kính thờ trọn đạo thỉ chung đủ rồi.
Thầy ban ơn các con. Thăng.
20 tháng 9 - Bính Tý (1936)
ĐẠI ĐẠO PHỤC HƯNG - CAO ĐÀI XUẤT THẾ
Thi:
CAO quá đỗi cao mấy kẻ tầm,
ĐÀI linh thần khí tụ nơi tâm,
THƯỢNG điền lập đảnh âm dương kết,
ĐẾ dĩ long thăng hổ giáng lâm.
Cười . . . Cuộc đời cay nghiệt, nhiều nỗi éo le, nạn nọ tai kia kế đến ngày tạo Thiên lập Địa. Máy hành tàng chưa thấu đáo, phép nhiệm mầu cơ Tạo đã bày ra. Ôi là thảm khổ cho đời sẽ chịu vùi chôn trong cuộc tang thương biến đổi.
Thầy nay giáng đàn là đem đôi lời Đạo-đức giảng giải cho đời thức tỉnh giấc ngây ngần huỳnh-lương chi mộng.
Thi:
Đại-Đạo vô hình giục chúng-sanh,
Đạo khai Thiên Địa Đạo lưu hành,
Đạo truyền xuống thế đời an trị,
Đạo-đức năng tu quả vị thành.
Đạo là vô-vi mà hữu tác. Đạo có động mà có tịnh, để dưỡng dục chúng-sanh và lưu hành trong Càn-Khôn Vũ-Trụ. Cũng trong một "Lý" một "Khí" mà Đạo đã tạo thành nghìn giống muôn vẻ. Đạo lại lúc ẩn hồi bày, cứ biến hóa đổi thay, thiệt là toàn năng cơ mầu nhiệm.
Đạo hay sanh mà hay sát, nhưng sanh hay sát cũng do tại lòng người đào tạo mà ra. Lắm khi nó ở chỗ gần mà người kiếm nơi xa, nó ở chỗ dễ mà người tầm nơi khó. Vả Đạo không xa người, chỉ tại người thường xa Đạo; mà hễ người xa cách Đạo thì người khó sống đời. Đạo lại vô ảnh, vô hình, vô thinh, vô xú, bởi vậy lắm khi người tầm không đặng, kẻ kiếm không ra đó cũng vì lúc nó lại, hồi nó qua, không bao giờ ngưng nghỉ.
Đây Thầy giải sơ chỗ Đạo vô-vi mà ứng lộ nơi hữu hình
Tại sao Đại-Đạo phục hưng -- Cao-Đài xuất thế ?
Đạo phục hưng là vì lòng bác ái, từ bi của Thầy thấy cuộc tuần huờn hầu mãn, cơ dĩ định cận kề, không lẻ để đám con thảy phải chung chịu trong cuộc tang điền thương hải, mà bị chôn lấp cả xác hồn, nên mới giáng thế phục hưng chơn truyền để chỉnh đốn đời u lệ trở lại đời Nghiêu, Thuấn, cho người người rõ Đạo-đức tu hành, hầu thuận theo Thiên lý mà bỏ dữ làm lành và kềm nhơn dục để xa đường tội lỗi.
Đạo lập ra cốt yếu để độ phần hồn của nhơn loại cho thoát khỏi chốn mê đồ, vòng tân khổ, nên mới gieo chơn truyền khắp chỗ, cốt tỉnh ngộ nhơn sanh.
Đã biết rằng Đạo là thanh thanh, tịnh tịnh, không ứng lộ ra ngoài, nhưng muốn lập giáo phải làm sao?
Phải bày cơ hữu hình để chỉ cho rõ lý mới được. Vậy cách lập giáo của Thầy cũng không chi lạ, chỉ noi theo Tam Giáo trước mà làm qui-cũ chuẩn-thằng rồi đem gồm về một mối chánh.
Tam-Giáo trước là: Nho, Thích, Đạo vì hoằng khai cũng đã lâu đời, nên bị biến cãi mà thành thử phải thất chơn truyền làm cho sai lạc mất hết cả Thiên-cơ mầu nhiệm, bởi đó nhơn sanh tu tuy nhiều mà thành thì chẳng có.
Lại cũng bị thất truyền mà Tam-Giáo lần lần phải chịu lu lờ mờ mịt. Nẽo chơn không ai đến, đường chánh chẳng người đi, nên cỏ mọc, bìm leo, gai rào, cây lấp. Vì lẽ đó nhơn loại phải chịu mãi trong vòng dây luân-hồi tứ khổ, đày đọa mãi ở chốn trần ai. Nhơn sanh cũng vì vậy mà lần lần tiêu Đạo-đức, phế tinh thần mới chuộng sự hữu hình, nên bày những âm thinh, sắc tướng. Không ai còn để chí, lưu tâm đến chỗ thâm huyền cao viễn, chỉ ưa sự dễ dàng, tạng thấy, tạng nghe, rồi cứ dẫy lòng nhơn dục tham mê, mới gây tội ác nặng nề, phải mang lấy sừng lông mà bị thối hóa lại súc sanh và luân-hồi lục-đạo.
Ba nhà Tôn-Giáo đã thất chơn-truyền:
1.- Đạo THÍCH, Đạo THIỀN bày dị đoan từ đời Thần-Tú làm mê hoặc chúng-sanh. Vậy cũng phổ độ, cũng giựt giành mà chỉ đem con người vào đường u ám, lạc lầm. Kinh sấm truyền lại mà không khảo cứu, kiếm tầm cho ra chơn lý, chẳng định trí tham-thiền, không gom thần nhập- định.
2.- Còn NHO-GIÁO, sau đời Mạnh-Tử, càng ngày càng lạc lầm, đường Thiên-lý chẳng cần, chỗ thâm nhiệm không rõ, chỉ học đặng khoe tài hay giỏi, dục lợi cầu danh, tổn nhơn ích kỷ chớ không chịu học để sửa mình, tầm hiểu cho tột cùng cái lý cao siêu huyền bí, cái cơ nguồn cội muôn loài.
Học là cốt để mở mang tinh-thần trí-hóa đặng trau giồi cho tận thiện, tận mỹ cái cơ hữu hình, chớ học mà để cầu vinh hay là mong mỏi đến quyền cao chức cả, ấy là người tiểu-nhơn hạ-trí, không biết cầu lấy cái cao siêu quí trọng, nhứt là Thiên-Chức mà Trời đã nấy trao cho.
Con người có hai cái phận sự: thứ nhứt là Thiên-Chức, thứ nhì là Nhơn-Tước. Thiên-Chức là cái chức vụ Thiên-nhiên của Trời phú cho người, còn Nhơn-Tước là cái tước phẩm phàm trần của người phong cho người.
Người quân tử bao giờ cũng cần phải trau giồi tánh cách cho hoàn toàn, đào luyện tinh thần cho thuần khiết, để lo cho tròn cái Thiên-Chức ấy. Vã con người hễ Thiên-Chức đã hoàn toàn thì Nhơn-Tước nào lại khó chi. Nhưng người đời lại hay có tánh ham ngọn mà bỏ gốc, nên hằng đem hết thần hồn mà say đắm về Nhơn-Tước chớ không còn nhớ đến cái Thiên-Chức chút nào. Ấy thiệt là đám hủ nho vậy.
3.- Còn ĐẠO-GIÁO là huyền bí, thậm chí ư huyền bí, chỉ có người bực thượng-trí mới thấu đáo chỗ căn nguyên, còn bực thường-nhơn hạ-trí thì rất khó thông cơ mầu nhiệm, bởi vậy mới hiểu lầm tưởng sái mà bày ra phép tắc, phù chú làm cho mê hoặc thói đời thêm hư phong tục, khiến người nhiễm lấy dị đoan nào là hô-phong hoán-võ, tróc quỉ, trừ ma, bày binh, bố trận, mới biến ra tả Đạo bàng-môn, thiệt là rất hại.
Ngày nay Thầy đến đây đem ba nền Tôn-Giáo hiệp nhứt lại, tạo thành một Tòa lớn lao để đời đời kiếp kiếp cho nhơn sanh nương vào đó mà lánh cơn nạn khổ thảm sầu. Ba nhà Tôn Giáo ấy tuy đổ sập mặc dầu, nhưng Thầy cũng vì lòng từ bi, chọn lựa cái nào còn đúng đắn thì Thầy lấy, cái nào hư nát thì bỏ ra; như cột, kèo, xuyên, trinh, ngói, gạch, cái nào còn nguyên thì dùng, cái nào bể nát hay hư hao, bị mối ăn, sâu đục thì bỏ ra. Cây nào cong vạy thì uốn nó lại, trừ ra uốn không nổi mới bỏ. Thầy lấy các vật ấy ráp lại thành một Tòa ĐẠI-ĐẠO cho nhơn sanh sùng bái, tu hành là tòa nhà ngày nay Thầy lập thành đó.
Tại sao ba nhà Tôn Giáo đó phải bị siêu đổ? Là tại cái nền tảng không đặng cứng cát, vững vàng, cất ở trên nổng cát, bảo sao gió thổi không xiêu, giông to chẳng đổ. Chớ còn ngày nay Thầy đến đây lập một Tòa CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO thì trước hết Thầy đã biểu các con xây nền đấp móng dưới cho chặt chịa, vững vàng rồi mới cất Tòa nhà đồ sộ ấy lên, thì sẽ đặng bền vững lâu dài hơn ba nền Tôn-Giáo trước.
CÁCH THỨC THỜ PHƯỢNG
Đây Thầy giải sơ về cách thức thờ phượng của Cao-Đài Đại-Đạo. Tại sao Thầy lại bảo các con tạo ra "Thánh Nhãn" mà thờ, không dạy thờ hình tượng như các Tôn Giáo khác? Các con phải biết rằng: Trời là Lý thì Lý ấy rất thông linh bao quát Càn-Khôn Thế-Giới. Thầy đâu phải có xác phàm như các con mà tạo hình thể như các con, nên chi thờ Thiên-Nhãn là thờ Thầy.
Tại sao Thiên-Nhãn là Thầy? Thầy có dạy trước: "Nhãn thị chủ tâm, lưỡng quang chủ tể, quang thị thần, thần thị Thiên, Thiên giả ngã giả". Nhãn là trái tim của con người. Trái tim ấy là Tạo-Hóa tức là Thần mà Thần là cái hư vô. Lý hư vô ấy là Trời vậy.
Người tu hành chừng nào luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hườn hư, luyện hư huờn vô thì huyền quang nhứt khiếu ấy mở hoát ra.
Huyền quang nhứt khiếu ấy là chi? Là Thiên-Nhãn vậy. Nó ở ngay nê huờn cung, gom trọn chơn dương chánh đạo. Hai con mắt của các con là nhục nhãn, tức là âm với dương, thì cũng như Thái-Cực là Thiên-Nhãn, còn lưỡng quang là Nhựt Nguyệt hằng soi sáng khắp Càn-Khôn, cứ tuần huờn mãi, hết ngày đến đêm, hết đêm đến ngày, không bao giờ dứt sự hành tàng của Tạo-Hóa.
Thi:
Luyện thuốc kim đơn rõ Đạo mầu,
Thành Tiên tác Phật tại song-Mâu,
Âm dương toàn ẩn cơ tại "Mục",
Thần khí thông linh tại thượng đầu.
Đây Thầy giải về: Vô Cực Đăng.
Trước khi chưa phân Trời Đất thì khí hư vô bao quát Càn-Khôn sáng soi đầy trong Vũ-Trụ. Nó là một cái trung tâm điểm tức là Đạo. Đạo ấy mới sanh Thái-Cực, hóa lưỡng nghi. Lưỡng nghi là âm với dương (động với tịnh). Có âm dương rồi mới hóa sanh muôn vật.
Ngọn đăng các con thờ chính giữa đó là giả mượn làm tâm đăng. Phật Tiên truyền Đạo cũng do đó, các con thành Đạo cũng tại đó. Nó ngay chính giữa không lay động, xao xuyến, chiếu soi khắp cả Càn-Khôn. Mặt Nhựt, Mặt Nguyệt có lúc sáng, hồi tối, chớ nó thì giờ khắc nào cũng tỏ rạng không lu lờ. Nhơn vật nhờ đó mà sanh, nhờ đó mà thành, nhờ đó mà an vui, Trời Đất nhờ đó mà quang minh trường cửu, người tu hành nhờ đó mà tạo Phật tác Tiên, siêu phàm nhập Thánh. Hễ chinh qua bên tả thì thành tả-đạo, xê qua bên hữu thì lại bàng-môn, ngay ở giữa là chánh Đạo. Các con nên tường lý ấy. Lý ấy ở trong tâm. Tâm an tịnh, vô-vi tự-nhiên bất động là chánh Đạo, tâm còn tính mưu thần, chước quỉ, độc ác, hiểm sâu, ấy là bàn môn tả Đạo, chớ chi các con.
Còn Hai Chén Nước là âm dương (động và tịnh). Âm dương là cơ động tịnh của Trời Đất tức là thần khí của các con. Tu hành không nhờ thần khí lấy gì luyện đắc Thánh thai. Trời Đất không có âm dương làm sao hóa sanh vạn vật, muôn vật không trống mái làm sao sanh sản thêm ra. Vậy âm dương là cái diệu động tịnh của Trời Đất vậy. Âm dương lại có thêm cái thể dụng của âm dương nữa là Nhựt, Nguyệt, tức là Cặp Đèn (lưỡng nghi). Người tu hành biết cách hồi quang phản chiếu thì đắc kim đơn cơ tại mục là vậy.
Trên có Lư Hương tức là Tiên-Thiên lập đảnh, tượng ngũ khí, ngũ hành.
Dưới có Lư Trầm là Hậu-Thiên an lư, hóa ngũ linh, ngũ đức. Trên đầu là đảnh, dưới đơn-điền là lư.
Còn Hoa, Quả, Trà là tam-bửu của các con. Ngày nào hiệp tam-bửu rồi là ngày thành Đạo.
Trường Thiên
Khí hư-vô tạo ngôi Thái-Cực,
Tức là ngôi độc nhứt quang minh,
Vô-vi, vô-ảnh, vô-hình,
Thần thông quảng đại chí linh diệu-huyền.
Trong Vũ-Trụ trọn quyền sanh hóa,
Nắm trong tay khắp cả Càn-Khôn,
Nấng nuôi vĩnh kiếp trường tồn,
Làm cho xác thịt linh-hồn an vui.
Người tâm chí nhiễm mùi Đạo-đức,
Gia công tìm mẹo mực Tạo Đoan,
Rõ thông trong máy hành tàng,
Bảo tồn thân thể vững vàng bền lâu.
Khắp Vũ-Trụ một bầu Thiên Địa,
Cơ vận hành bốn phía mở mang,
Phân ra Địa-Ngục Thiên-Đàng,
Các con sao vén nổi màn huyền vi.
Đạo ẩn tàng, có khi ứng lộ,
Phật, Tiên truyền để độ chúng-sanh,
Chỉ phương siêu thoát rành rành,
Thuận tùng Thiên-lý tu hành lại ngôi.
Phép Đạo tránh luân-hồi tứ khổ,
Mà tầm vào đến chỗ quang minh,
Bày ra giả tướng hữu hình,
Đặng làm thể Đạo chí linh diệu-huyền.
Người gọi là tiểu Thiên Địa đó,
Người với Trời nào khó khác chi,
Hễ Trời có những món gì,
Người người đều cũng đủ y như Trời.
Trong thân thể đổi dời tấn-hóa,
Người biết tu mau khá trau giồi,
Coi như có lỡ thì bồi,
Cho đầy đủ lại phục hồi cựu nguyên.
Phật nhập-định tham-thiền tầm lý,
Mà dưỡng thần, tinh, khí đủ đầy,
Làm cho bánh phép hằng xây,
Âm dương luân chuyển gió mây vận hành.
Tiên tịnh-tịnh thanh-thanh bất động,
Để cái tâm trống lỗng chẳng xao,
Tâm xao biển dậy ba đào,
Trược thanh cũng phải lộn nhào đó con!
Con biết Đạo giữ còn tâm Đạo,
Mang thân người lộn lạo âm dương,
Pháp-luân con chuyển cho thường,
Xuất huyền nhập tẫn là đường giao thông.
Luyện âm tuyệt lòng trong đắc quả,
Âm tuyệt rồi Đạo đã thuần-dương,
Thuần-dương thẳng đến Thiên-Đường,
Làm Tiên, Thánh, Phật thoát đường tử sanh.
Chơn-dương hết thì thành ma quỉ,
Âm dương đồng tức thị là người,
Hạo nhiên cướp đặng tốt tươi,
Đem vào nuôi nấng thân người trường sinh.
Dạy sơ qua hiểu rành lấy trẻ,
Phép nhiệm mầu không lẽ chỉ nhiều,
Tìm vào đường giác thì siêu,
Biết phương thoát khổ phải chìu Thiên-cơ.
Đạo không thấy, nghe rờ sao đặng,
Đạo im lìm phẳng lặng tự-nhiên,
Đạo thông lưu khắp hậu tiền,
Đạo là then máy diệu-huyền biết bao.
Đạo không thấp, không cao chi cả,
Đạo không dùng phép lạ hoặc nhơn,
Đạo là chí-chánh chí-chơn,
Toàn năng, toàn thiện là đơn luyện thành.
Đạo dưỡng dục vận hành bao quát,
Đạo độ người hay sát hay sanh,
Suy cho thấu, hiểu cho rành,
Giải sơ hình thể chúng-sanh bề ngoài.
Tôn chỉ Đạo Cao-Đài chỉ rõ,
Mượn hữu hình bày tỏ chỗ vô,
Thiên-Bàn làm cái Bản Đồ,
Coi ngoài mà biết điểm tô trong mình.
Tuy là sự giả hình sắp đặt,
Trái trông sao thì mặt cũng in,
Người tu phải biết giữ gìn,
Chuẩn thằng qui củ mà tìm Thiên-cơ.
Tại sao lại dạy thờ Thiên-Nhãn?
Thiên-Nhãn là căn bản chúng-sanh,
Đó là một đấng trọn lành,
Một ngôi chúa tể hóa sanh muôn loài.
Trong các giống, các nòi do đó,
Mà ngày nay mới có tại đây,
Hạ-nguơn máy Tạo vần xây,
Nên chi Từ-Phụ dựng gầy cơ quan.
Biết tu sớm hội bàn lập vị,
Trước dạy rồi nhãn thị chủ tâm,
Tâm là chủ-tể cao thâm,
Quang minh chánh đại muôn năm vững vàng.
Phải biết rõ "lưỡng quang chủ tể",
"Quang thị Thần, Thần thể thị Thiên",
Thiệt là diệu-diệu huyền-huyền,
Trời người có một chẳng riêng khác gì!
Trời là Lý vô-vi tuyệt diệu,
Tức là thần phản chiếu Càn-Khôn,
Người kêu bổn tánh linh-hồn,
Đời đời kiếp kiếp trường tồn không hư.
Phép tu biến đầu từ suốt cuối,
Khai huyền quang tánh muội đắc thông,
Toàn tri hiển hiện chơn không,
Huyền quang khai xuất nhãn thông côn-đoài.
Đoạt lấy chỗ bổn lai diện mục,
Luyện cho thành cửu khúc minh châu,
Tha-tâm thông mối nhiệm mầu,
Lấy kim đơn tại sông mâu vào lò.
Thần cảnh thông Đạo do tâm đắc,
Diệt lục trần, lục tặc ngoài trong,
Làm sao cho lậu-tận thông,
Thành tâm tuyệt vọng trống trong mới mầu.
Đạo hư vô người hầu đoạt lấy,
Thiên-Nhãn thông mới thấy suốt tường,
Nhãn là thần đã thuần-dương,
Công viên quả mãn đắc trường sanh an.
Cách sắp đặt Thiên-Bàn thờ phượng,
Mượn hữu hình sắc tướng truyền đăng,
Tam-Tông đem Đạo khai hoằng,
Dụng tâm chánh-giác công bằng chấp trung.
Nói sao cho tận cùng lý Đạo,
Vẽ vời ra máy Tạo khó thay!
Mỗi người có tánh Như-Lai,
Tầm ra thấy sẵn Thiên-Thai bên mình.
Chỗ chí diệu, chí linh Đạo cả,
Âm dương hòa sanh hóa Phật Tiên,
Cái cơ động tịnh diệu-huyền,
Luyện thành chánh quả nhờ truyền âm dương.
Trời, Đất, Người, một phương một lý,
Trong mình người thần khí giao nhau,
Cang nhu, trống mái một mầu,
Đục trong lừa lọc thì mau chứng thành.
Năm Cây Nhang ngũ hành mới tượng,
Mới phân ra bốn hướng bốn phương,
Cặp Đèn là tiểu âm dương,
Tức là Nhựt, Nguyệt chiếu chương đêm ngày.
Vận hành mãi trở day lăn lộn,
Soi sáng cùng chốn chốn nơi nơi,
Làm cho rực rỡ Đất, Trời,
Người là đôi mắt ấy thời khác chi?
Mắt thuộc hỏa là Ly thần trụ,
Luyện thâu về cho đủ một cân,
Kim đơn nhờ hiệp khí thần,
Tan ra là khí tụ đông thành hình.
Tinh, Khí, Thần, trong mình có đủ,
Hoa, Quả, Trà thể dụ tam-quang,
Lư Trầm để tại trước bàn,
Tiên-Thiên lập đảnh, hậu càn an lư. (1)
Chú thích:
- Hậu là hậu-thiên.
CHƯƠNG III
ẤN CHỨNG THIÊNG LIÊNG
* * * * *
Danh hiệu của những đạo hữu có thọ lãnh chơn truyền tu theo phái "Vô-Vi Tam-Thanh" đã chứng quả vị và có giáng đàn từ năm Bính Dần (1926) đến năm Canh Dần (1950).
____________
15 tháng 8 - Bính Tý (1936)
ĐÀN RA KINH ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO
Thi:
GIÁC ngộ Đơn-thơ luyện pháp mầu,
BỬU đài an hưởng thể dài lâu,
NƯƠNG chơn bước thẳng đàng Tiên Phật,
NƯƠNG bóng Từ-Bi tránh bể dâu.
Chào chư đạo-tâm nam nữ lưỡng phái.
Trường Thiên:
Chán đời tầm Đạo thoát thân,
Nhảy ra cho khỏi lưới trần bao vây.
Gẫm suy cơ tạo vần xây,
Người đời sống đó thác đây mấy hồi!
Ưa gì những bã tanh hôi,
Lợi danh vốn thiệt miếng mồi quỉ câu.
Trần gian mai thảm chiều sầu,
Không lo nhảy tránh cái bầu tang thương.
Tập tành Đạo-đức làm gương,
Phủi mùi thế tục tầm đường quang minh.
Đời người mộng ảo phù sinh,
Chắc chi an lạc chôn mình bến mê.
Biết đi sao chẳng biết về?
Biết khôn sao cứ dựa kề bẫy hang?
Trước ta cũng ở thế gian,
Cũng mê, cũng mết cũng lòng chuộng ưa.
Đến sau thức tỉnh bỏ chừa,
An vui cùng Đạo sớm trưa tu hành.
Mùi đời đã biết hôi tanh,
Thì đâu có giựt có giành làm chi!
Học câu bác-ái từ-bi,
Giữ tâm thanh-tịnh vô-vi rất nhàn.
Luyện đơn nấu thuốc Tiên-bang,
Chí tâm trao tánh vững vàng chín ươm.
Đời là vũng máu núi gươm,
Mưa dầu nắng lửa họa chung tràn đồng.
Chi bằng phủi sạch bụi hồng,
Ngoài vòng cương tỏa tâm không mới mầu.
Mò trăng chi đáy nước sâu,
Sắc mầu hình tướng có đâu vững vàng!
Cảnh Tiên chi xiết là nhàn,
Phồn hoa náo nhiệt rộn ràng mừng lo.
Miễn đời mặc ấm ăn no,
Gia thê đái tử lo cho đủ đầy.
Luyến trần phải chịu đắng cay,
Sừng lông biến kiếp lôi cầy, kéo xe. (Cười. . .)
Thi:
Xe loan đẩy thẳng đến đàn Tiên,
Mừng hội Tam-Thanh chuyển Đạo huyền,
Kinh báu một pho đầy nghĩa lý,
Ắt là nhơn loại đứng ngồi yên.
Tôi xin kiếu chư Đạo-tâm nam nữ. Thăng.
14/15 tháng 11 Kỷ Sửu (1950)
Thi:
CAO minh thưởng phạt rất công bình,
ĐÀI Đạo độ người biết kỉnh tin,
GIÁO hóa Tâm-Kinh truyền bí-pháp,
CHỦ tâm phanh-luyện kiến châu minh.
Thầy mừng các con nam nữ.
Thầy miễn lễ, các con tịnh tâm nghe Thầy dạy:
Đạo Thầy tuy khó nhưng cũng có chỗ dễ, sự dễ hay khó là do nơi người học Đạo hiểu hay chẳng hiểu chỗ chánh-lý mà thôi. Thầy hay độ những kẻ có lòng thành biết trọng Đạo kỉnh Thầy, một tiết cầm không dời đổi, hằng giữ câu chánh-kỷ hóa-nhơn, chẳng tham danh luyến lợi.
Thầy thấy phần đông trong hàng môn-đệ còn lầm tưởng mà tranh cao luận thấp với nhau về chỗ tu Tiên, tu Phật. Vậy Thầy giải thích cho các con rõ:
Ở vào thời kỳ hạ-nguơn này, chính mình Thầy lãnh phần thống chưởng quyền hành của Tam-Giáo là Phật, Thánh, Tiên giữa hội Công-Đồng. Bởi vậy tu theo Đạo Thầy ai có duyên Phật thì đắc Phật, ai có căn Tiên thì thành Tiên, cũng có kẻ chứng quả vị Thánh Hiền hoặc chuyển kiếp luân-hồi đặng thọ hưởng vinh-hoa phú-quí. Bởi vậy cho nên mới gọi rằng Đại-Đạo Qui-Nguyên hay là Đại-Đồng Tôn-Giáo.
Đàn nay Thầy ân phong cho Lưu vào hàng "Hậu Bát Tiên", chứng vị là "Bích-Vân Tiên-Cô" thế cho "Hà Tiên Cô" thăng cấp.
Vậy các con tiếp cầu, Thầy thượng ỷ.
(Tiếp Cầu:)
Thi:
BÍCH thủy châu lưu chiếu rạng ngời,
VÂN nghê vận tải khắp cùng nơi,
TIÊN đơn độ thế cơn nguy biến,
CÔ đọc Tâm-Kinh rõ mạng Trời.
* * *
Trời Đất chuyển xây tạo thế trần,
Bốn mùa tám tiết cứ vần lân,
Hà Đồ luyện đặng trường xuân thọ,
Đắc nhứt dương gian Đạo tối cần.
* * *
Cần mẫn lo tu luyện kiếp này,
Đắc thành mới rõ hội "Rồng mây",
Non Tiên khiển hứng nhuần ân cả,
Động Thánh tiêu diêu gội đức Thầy.
* * *
Thầy dạy năm xưa tạc để lòng,
Tu hành nên luyện tánh "Không Không",
Trao tâm bất nhiễm điều trần tục,
Đoạn dứt ý phàm đắc lục-thông.
Mừng chư hiền huynh, chư hiền tỷ cùng chư hiền hữu nội đàn.
Từ ngày nợ mãn số trần, căn Tiên phục vị đến nay, tôi hằng thừa lúc nhàn thanh ngao du khắp cả non Tiên, động Thánh. Nay tôi mới rõ lại cõi trần đen-tối, lạnh-lùng, nặng-nề, trọng-trược, sánh với non Tiên muôn phần khác hẳn, nào là thú non nhơn nước trí, dị thảo kỳ hoa; bốn mùa thoại khí đầm-ấm êm-đềm thanh-tịnh. Người thì muôn tuổi chẳng thay hình, còn cảnh vật lại ngàn năm không đổi sắc, Thật: "Cảnh tục người Tiên không thể trú, còn cảnh Tiên người tục dễ chi gần".
Sánh ra kiếp con người ở trần gian chẳng khác nào như sương sa ở ngọn cỏ, như tuyết đóng ở đầu non, chỉ rã tan trong giây lát, mà kẻ thế chẳng mấy ai nghĩ đến chỗ đó mà giựt mình hồi tâm tự tỉnh hầu có tầm phương tu luyện để giải thoát kiếp phù sanh sớm nở tối tàn, cứ mảng lo chen lấn phú cường, mua vinh bán nhục, đoạt lợi tranh danh mà đành chôn lấp tinh thần vào nơi tử lộ.
Tôi, buổi sanh tiền nhờ có duyên lành sớm gặp THẦY, gặp Đạo, là nhờ có trọn đủ đức tin, thỉ chung không dời đổi nên ngày nay mới đặng chứng quả vị nhàn, thật chẳng uổng cho một kiếp tu trải biết bao nổi đắng cay buồn tủi.
Thi:
Tu hành trước khổ mới sau vui,
Nhẫn tánh kiên tâm nếm đủ mùi,
Hết đắng, hết cay, rồi tới ngọt,
Đạo mầu thâm-thúy tới giờ lui.
Trường Thiên
Thừa ưa gió mát trăng thanh,
Mây lành đỡ gót dạo quanh động tiền.
Phút đâu Ngọc-Sắc ban truyền,
Phụng thừa Thánh-chỉ đàn tiền giáng lai.
Trường thiên thảo luận một bài,
Để làm kỷ niệm nhơn ngày "ân-phong".
CAO-ĐÀI Giáo-Chủ Tiên-Ông,
Hoằng khai ĐẠI-ĐẠO ân hồng vạn linh.
Truyền phương khử ám hồi minh,
Chơn-ngôn diệu-khuyết tâm-kinh chỉ truyền.
Cho người rõ thấu bổn nguyên,
Tầm tu tác Phật thành Tiên siêu phàm.
Thú vui đuốc-tuệ hoa-đàm,
Phú thi tửu hứng lòng phàm diệt tiêu.
Lượng trên dĩ đức dung nhiêu,
Hòa nhơn độ thế chuộng-chìu chúng-sanh.
Miễn đời giác ngộ đường lành,
Tỉnh cơn hồ-điệp tu-hành Đạo chơn.
Đời vừa gặp lúc Hạ-Nguơn,
Tang-điền thương-hải tuần huờn vần xây.
Thiên-cơ khó nỗi giải bày,
May duyên mới gặp ĐẠO THẦY kỳ ba.
Rán tu kịp hội "Long-Hoa",
Trể rồi một kiếp đọa sa muôn đời.
Dầu cho vật đổi sao dời,
Tu hành cũng đặng Phật, Trời chở che.
Thăng.
Đêm 23 tháng 7 - Tân Tỵ (1941)
"CHIẾU-MINH" - ĐÀN CHỢ LỚN
Thi:
CAO ban đệ-tử đắc thành công,
ĐÀI-các nêu tên rõ mặt rồng,
GIÁO hóa từ xưa gìn trọn Đạo,
CHỦ truyền chiếu triệu một tay ông.
Thầy mừng các con
Thầy giáng thế lập nên một nền ĐẠI-ĐẠO, trước cho các bậc nguyên-nhân giáng trần, luân-hồi chuyển kiếp, lẫn lộn cùng đời chịu đủ các cảnh của đời tạo ra, hầu để chờ ngày thâu hành phận sự, để dìu-dắt toàn linh trở về căn xưa vị cũ. Duyên may các con gặp Đạo Thầy, các con chớ sờn lòng nản chí, các con nên noi gương của các bậc Tiên du liễu Đạo mà trì chí lập tâm kiên cố để theo Thầy cho đến ngày cùng. Vậy như Trọng đây trước cũng một nguyên-nhân của Thầy sai giáng phàm, ngày nay công đầy quả đủ, Thầy hạ chiếu-triệu đơn-thơ thâu về nguyên vị.
Thi:
Dày dặn công phu Đạo mới thành,
Rở ràng đệ-tử của Tam-Thanh.
Luân-hồi chuyển kiếp theo trần thế,
Thâu góp toàn linh chứng quả lành.
Vậy ngày nay chiếu theo Thiên-luật, Thầy hạ lịnh ân phong cho Trọng là ĐẠI-GIÁC CHƠN-TIÊN. Thầy ban ơn cho giáng đàn nay cùng các con Đạo lý thuyết minh. Thầy thượng ỷ.
(Tiếp Cầu:)
Bần-Đạo mừng chư đạo hữu cả đàn.
Thi:
ĐẠI chiếu ân ban sắc lịnh Thầy,
GIÁC truyền thong thả trở về Tây,
CHƠN ngôn Từ-Phụ vừa phân phán,
TIÊN Phật vui vầy một hội say.
Hựu:
Mấy kiếp lâm phàm mấy kiếp xong,
Vẹn lời nguyện ước đặng thành công,
Tu hành hằng giữ lòng kim thạch,
Học Đạo thường noi chí bá tòng.
Bí pháp đồ theo khuôn Tạo-Hóa,
Chơn truyền họa lại phép Sư-Ông,
Ngày nay công quả vừa viên mãn,
Mừng đặng Thiên-Đình sắc chỉ phong.
Bài:
Ngày thọ lãnh đơn-thơ chiếu-triệu,
Khiến tâm thân yểu-yểu minh-minh,
Nê-huờn Thầy mở khiếu linh,
Dứt rồi cuộc thế Ngọc-Kinh trở về.
Chầu Sư-Phụ sắc phê ban thưởng,
Hội quần Tiên vui hưởng Bàn-Đào,
Cảnh nhàn mặc sức tiêu-dao,
Phụng chầu hạc múa đón chào người xưa.
Thú thanh nhã chiều trưa toại chí,
Cuộc nhàn du sơn thủy thích tình,
Sen vàng đỡ gót khoe xinh,
Dạo chơi Tử-Phủ, Động-Đình, khắp nơi.
Sớm Bồng-Đảo, chiều về Tây-Vức,
Cảnh thiên-nhiên thơm nực mùi hương,
Chỉ rành cảnh báu Tây-Phương,
Ai người rõ lối kíp bương trở về.
Nhớ những lúc Thầy phê tại thế,
Lập đàn tràng phổ tế chúng-sanh,
Cơ linh từ ấy lập thành,
Lần lần Thầy chuyển nguyên-sanh trở về.
Nơi Trước-Lý mượn đề bí-khuyết,
Chọn chư hiền chí-thiết Đạo-tâm,
Linh-Đài là chỗ cao thâm,
Là nơi linh-diệu chỉ tầm Đạo cao.
Tạm một lúc rồi sau cũng dẹp,
Cho chư hiền biết phép của Thầy,
Phép Thầy luân chuyển như vầy:
Bí-truyền, giáo-hóa, phân hai con đường.
Chừng ấy mới tỏ tường chơn-giáo,
Bần-Đạo đem bổn thảo ra truyền,
Chỉ rành người tục phép Tiên,
Hiểu rồi khá rán cần chuyên đêm ngày.
Đủ mọi lẻ tỏ bày khi trước,
Giữ in khuôn gắng bước đừng sai,
Đạo thành chịu khổ nhiều ngày,
Đường-Tăng xưa cũng đắng cay muôn bề.
Bần-Đạo đây hằng nghe Sư-Phụ,
Để nhiều lời phủ-dụ ban sơ,
Khảo-trừng lắm lúc ngẩn-ngơ,
Như đèn trước gió, như cờ gặp dông.
Nhưng khắn khít một lòng bền chặt,
Nhờ trên Thầy thường nhắc lắm khi,
Làm tôi với Chúa trọn nghì,
Không tham sang cả chẳng vì lợi danh.
Giữ đặng một chí thành lo Đạo,
Đến ngày cùng phướn báu tay nương,
Biết rằng đồng Đạo mến thương,
Quả lành đã chứng Tây-Phương phải về.
Thuyền Bát Nhã đã kề sẵn bến,
Lái huyền-quang cầm đến Ngọc-Kinh,
Khách Tây-du mới thoả tình,
Công viên quả mãn Thiên-Đình thưởng ban.
Thi:
Bồ đào cam giá tửu Tây-Phương,
Ly rượu mừng chung chữ nghĩa phương,
Tiên tục từ đây xa lại cách,
Cơ mầu sau sẽ tỏa nên chương.
Bần Đạo kiếu. Thăng.
Đêm 30 tháng 10 - Đinh Sửu (1937)
CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG
Thầy mừng các con nam nữ.
Hôm nay, do lòng thành của các con, cùng chiếu theo luật công-đức, Thầy điểm hóa ban phong cho Lành:
Thi:
NGỌC Lành chiếu cõi Động-Đào-Nguyên,
VÂN các an vui cảnh lạc miền,
TIÊN thể tiêu-diêu hồi vị cũ,
NƯƠNG nhờ hạnh phước đức Thiên nhiên.
Các con tịnh tâm tiếp điễn, Thầy cho đệ-tử giáng. Thầy thượng ỷ.
(Tiếp Cầu:)
Thi
NGỌC-Các từ khi trở bước về,
VÂN đài an thú cũng là xuê,
TIÊN phàm hai nẻo ai người biết,
NƯƠNG Đạo song tu mới chẳng quê.
Tôi mừng Đạo-Tỷ, mừng chung chư hiền nam nữ. Đàn nay tôi xin phép Thầy giáng để đôi lời hơn thiệt cùng chư Đạo hữu.
Trường Thiên
Xót vì nỗi Đạo đời chưa rõ,
Vui cho người biết bỏ phàm phu,
Cuộc trần như đám mây mù,
Khi tan khi tụ công phu vững bền.
Nương với Đạo tuổi tên sẽ rạng,
Đức vun bồi cho hản chữ tu,
Cá kia còn đợi hóa cù,
Lao công nhọc sức ngàn thu mới toàn.
Kỳ đại xá Nam-bang hữu phước,
Mối chơn truyền gặp được là may!
Ai ôi! đặng biết Cao-Đài,
Rán tu cho kịp Thiên-Thai trở về.
Lòng tưởng Chúa nên xa thế tục,
Giữ y truyền nhịn-nhục là hay,
Công phu cần-mẫn đêm ngày,
Gội nhuần ân đức ngày ngày đặng an.
Con nước thuận máy thoàn tấn bộ,
Vượt dòng khơi đến chỗ hưởng nhàn,
Là nhờ gắng sức đặng toàn,
Kịp kỳ mở hội Tây-Phang trở về.
Tôi mới giáng lần đầu, vì đồng tử yếu thần, tôi chỉ bày chẳng đặng nhiều, sau rồi sẽ tiếp. Tôi xin kiếu. Thăng.
Đêm 30 tháng 5 - Đinh Sửu (1937)
CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG
Đạo rất khó, các con cần giữ đức tin cho cứng-cát thì muôn điều khảo-đảo cũng dễ chống trả đặng. Các con tu hành phải giữ y lời truyền giáo thời mới thấy chỗ nhiệm mầu của Đạo.
Thi
DIÊU đài hớn hở tháng ngày an,
CUNG điện vào ra toại chí nhàn,
NGỌC lịnh Thầy ban ân tứ phước,
NỮ hiền trau-luyện pháp huyền-quang.
Đó là phẩm vị của Quít, công trình khó khăn tu-luyện cũng chẳng mấy nhiều, tuy Thầy ban phong, nhưng còn phải lo tu bồi thêm công đức.
Thầy cho chơn-linh của Quít giáng, Thầy thượng ỷ.
(Tiếp Cầu:)
Tôi chào chư Đạo-huynh, Đạo-tỷ, cùng Đạo-muội.
Rất lành thay! Đắc lịnh Thầy giáng đàn để đôi lời trần tố. Lúc tôi còn ở thế sớm gặp chơn-truyền là vì bởi hữu căn, tu hành còn non, nhờ gặp kỳ đại-ân-xá, được Thầy độ đem về, nhưng bấy lâu nay tu hồn rất khó, chư hiền còn nương với xác phàm, rán lo tu chớ để mãn số chơn-linh còn non yếu rồi thì tiếc như tôi đã muộn.
Thi
DIÊU-CUNG gần mở hội Bàn-Đào,
NGỌC chiếu Trời Nam vẻ trắng phau,
NỮ tú nam thanh còn luyến thế,
Giáng trao lời mọn tỉnh đồng bào.
Trường Thiên
Trời mở lượng từ-bi bác-ái,
Đem giống lành gieo rải năm châu,
Cao-Đài cứu thế hồi đầu,
Lên thuyền Bát-Nhã bể dâu tránh lần.
Chạnh nỗi thế tao-tân vì thế,
Giữa lưới trần bồng bế cái sầu,
Đêm ngày giọt lệ thâm bâu,
Đường dây oan trái buộc đầu trói chơn.
Thói mê-muội gây hờn chác oán,
Mấy ai tường nẻo sáng đường mờ,
Bốn tường ràng buộc ngẩn ngơ,
Hao mòn thần khí mịt mờ tánh linh.
Tránh đâu khỏi thất-tình lục-dục,
Đem tinh-thần un đúc giống ngoa,
Chìu theo chước quỉ mưu tà,
Trường tình gây lấy oan-gia ích gì!
Đời mộng ảo có chi là thiệt,
Nỗi đoạn trường tử biệt sanh ly.
Ai người cùng xét cạn suy,
Tầm đường chánh-giác qui-y hồi đầu.
Phương thoát khổ Đạo mầu sẵn có,
Người trí tri gắng bó tầm tu,
Đem mình đến cảnh thanh-u,
Thoát vòng tục-lụy muôn thu hưởng nhàn.
Vui chín phẩm sen vàng miết mướt,
Nương mây lành rảo bước non thanh,
Chim linh thảnh thót trên cành,
Bảy hàng cây báu thanh-thanh một mầu.
Hương ngạt mũi Động-Đào hoa nở,
Nghe đời linh thơ-thới tinh-thần,
Biết mình lánh khỏi mê-tân,
Lộc Trời hưởng lấy muôn phần an vui.
Chư Đạo hữu hãy để tâm suy nghiệm. Thăng.
Đêm 30/1 tháng 11 - Mậu Dần (1938)
"CHIẾU MINH" - THẢO LƯ ĐÀN
Thi:
NGỌC Chiếu Nam-Phương lố ánh hồng,
HOÀNG Minh Đại-Đạo điểm thâm công,
THƯỢNG căn giác đắc truyền tâm-pháp,
ĐẾ bổn qui hồi sắc tứ đông.
Thầy mừng các con.
Giờ linh Thầy giáng điễn bố hóa các con tu hành mau thành tựu. Thầy ban ơn chung.
Tu hành thì chờ ngày đắc quả, cũng như trồng cây thì chờ lúc sanh hoa trổ trái. Biết như vậy các con cứ bền lòng đi tới mãi, nài chi những sự trở gay là cơ tấn-hóa. Các con nên để ý và hiểu thì yên tâm.
Đàn nay Thầy ân phong cho Niệm là: "GIÁC-MINH KIM-TIÊN". Các con tiếp cầu Thầy thượng ỷ.
(Tiếp Điễn:)
Thi
GIÁC khai chơn lý Đạo,
MINH tánh thức cơ huyền,
KIM đơn tu phản chiếu,
TIÊN thể phản huờn nguyên.
Mừng chư hiền hữu. Đã cùng nhau chia cách bấy chầy, nay trở lại vui vầy hỉ hạ. Về Tiên cảnh muôn ngàn thú lạ, Nhớ tình xưa bương-bã xin về. Đường Đạo-đức dễ bề điều độ.
Phú Lối Văn
Trời thanh tịnh cảnh Bồng-Lai trăm hoa đua nở,
Kìa tòa sen vàng rực rỡ, nọ lầu-các chớn chở huy hoàng,
Ngồi tịnh tâm trên chiếc bồ đoàn, tay lần hột kim-cang mà dưỡng an chơn-như bổn-thể;
Thoạt nhớ đến cuộc đời dâu bể, tai biến trong buổi tuần huờn,
Chạnh lòng từ bi thảm đòi cơn, hằng giáng bút khuyên lơn cho đời thức tỉnh.
Mượn điệu thi lối phú mà giải bày chơn lý Đạo cho người ngâm kẻ vịnh,
Hầu có chữa cái căn bịnh của kẻ tham nhiễm cuộc hồng trần.
Bắt cầu vàng nối nhịp sông Ngân, cho kẻ thế dời chơn về chốn Bồng-Lai Nhược-Thủy.
Kẻ hữu căn hữu phước cùng suy cạn nghĩ, khá lập chí lo tu luyện cho kịp hội kỳ,
Long-Hoa vốn là trường thi để chọn trang tu-mi Đạo cao Đức cả.
Người thượng-trí rõ câu nhơn-quả, mau lo trả đặng có bương-bã về cõi u-nhàn,
Cảnh tạm này mai thảm chiều than, sao bằng chốn Niết-Bàn hư-vô tịch-diệt.
Phép Đạo vốn hư-hư thiệt-thiệt, phải chí tâm mới biết đá vàng.
Đạo CAO-ĐÀI độ khách Nam-Bang, thuyền Bát Nhã rước trang chí đức.
Gươm trí-huệ đêm ngày ra sức, mài cho thông mà đoạn dứt oan-nghiệt buộc ràng.
Cửa Huỳnh-Kim lui tới dễ dàng, non Khứu-Lãnh ở an ngày Phật.
Người tu nhờ gặp nhiều cảnh éo le mới sửa đặng tánh mình. Vậy khá hiểu mà dè-dặt, dầu gặp cảnh ngộ khó khăn buồn bã mà chẵng cho là khó là buồn tức là dứt đặng tánh phàm tục. Gặp cảnh nghịch chớ cho rằng nghịch, nên lấy ơn mà báo oán, mới gọi đấng trượng-phu, người quân-tư뮼o:p>
Ban ơn chung chư hiền hữu. Thăng.
Đêm 6 tháng 3 - Ất Hợi (1935)
CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ
Thầy các con.
Thi:
Chánh lý Đạo mầu độ thiện-căn,
Độ con nam nữ mối ân ban,
Trên trăm thế kỷ huờn nguyên lại,
Gắng chí khuyên lo mối Đạo hằng.
Các con! Đạo đã mở, mối chánh đường tà lẫn lộn xen vào, ấy là cơ Trời tiền định. Phải rán bền tâm vững bước trên đường Đạo.
Đêm nay, Huỳnh, Thầy cho đắc lịnh giáng đàn. Đúng giữa Tý thời các con tái cầu.
Trường Thiên
Cho hay cái chí tu hành,
Đến ngày qui liễu phước lành Thầy ban.
Đạo-tâm biết rõ đá vàng,
Huỳnh nay đắc chỉ Thầy ban trở về.
Các con xem thấy lời phê,
Thời mau lo liệu giải mê tánh trần.
Thầy là Tạo-Hóa cầm cân,
Dày công tu luyện hưởng phần công cao.
Tứ ân các trẻ giồi trau,
Cung Tiên phản giá Thiên-Tào đề lai.
Thầy ban ơn các con. Thăng.
(Tái cầu:)
Thi
THIÊN hạ nào ai có biết ai?
MÔN không tu luyện Đạo Cao-Đài,
ĐẾ vương hữu đức bền cơ nghiệp,
QUÂN tử không phân đọa chẳng sai.
Ngã Nguyễn-Văn-Huỳnh hồi gia mừng huynh đệ, mừng đạo Niệm, mừng Hồng, mừng các con, nghe:
Từ lánh thế theo Thầy về Bạch-Ngọc, lúc ấy thơ thới cảnh Tiên, nhìn lại cõi trần rồi thêm chán ngán. Về Bạch Ngọc, vào làm lễ Đại-Từ-Phụ, ơn ban trở lại phận sự nơi Thiên-Môn, nay đúng bá nhựt lai đàn thăm Đạo hữu.
Phú Lối Văn
Thiên khai Huỳnh-Đạo, Địa tạo sơn hà,
Khai đại-đồng tôn-giáo kỳ ba,
Lập chánh lý chung hòa hiệp một.
Đạo vô-vi chỉ truyền giống tốt,
Độ con người biết chốn tử sanh,
Rán lo tu, rán lập chí thành,
Xa vật chất, công danh là mộng tưởng.
Kìa là Cực-Lạc, từ-bi toại hưởng,
Khỏi tam-đồ nghiệp-chướng đẩy xô,
Vậy thì tua gắng chí cần lo,
Tỉnh giấc mộng, cầm lái chiếc đò,
Nhắm Tây-Thiên về trực chỉ.
Đạo thì có độ nhơn độ kỷ,
Theo vai tuồng chơn-lý phân minh.
Nhưng tiếc thay nhiều nỗi bất-bình,
Vì đố kﬠvì danh, sanh nghịch lẫn.
Khuyên đạo-hữu tu đừng hay giận,
Để nguơn-thần dìu dẫn thông lưu.
Tu cũng đừng hay ưu hay tưởng,
Thời ra vô một hướng cao thâm.
Xuất Chơn-Thần diệu ẩn nơi thân,
Xem kẻ thế lỗi-lầm đều biết.
Thầy có dạy đành rành tịch-diệt,
Vậy ai tường nói thiệt ra nghe,
Đạo thời tu cũng phải dặt dè,
Song luận biện nên lề luật dạy.
Tịch diệt phải hư vô hiệp lại,
Đạo cao-thanh một phái vô-vi,
Nghĩ cuộc đời rồi gẫm là hay,
Sanh ở thế cũng chẳng nài vì thế,
Mượn xác thịt để làm diệu kế,
Nuôi Chơn-Thần ngưng bế luyện tu,
Hằng ngày lo vận chuyển công phu,
Thành chánh-quả ngao-du cõi ngoại.
Giã nam nữ Thiên-Môn trở lại,
Nơi cõi trần trái phải mặc ai!
Thăng.
Đêm 6 tháng 3 - Ất Hợi (1935)
CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ
Thầy mừng các con nam nữ. Đàn nay Thầy ân phong cho Huy vào hàng Tiên tịch, chứng quả vị là "HUỆ-MẠNG KIM-TIÊN" và cho giáng đàn, vậy các con tiếp cầu, Thầy thăng.
(Tiếp điển:)
Thi:
HUỆ-MẠNG ân phong thọ chỉ qui,
Lai đàn tam hiệp tối giai kỳ,
Tiền trình liễu đắc Thiên-đàng lộ,
Thị ngã Bùi-Quang tánh tự Huy.
Hỉ chư đạo hữu. Đạo ngày nay còn cậy có chư Đạo hữu ở lại lo hoàn thành mà giúp Thầy.
Trường Thiên
Tiếng rằng học Đạo tu Tiên,
Noi theo bước Thánh, chơn Hiền khi xưa.
Nghe rằng là bực thượng-thừa,
Bốn thời chẳng xót chiều trưa đủ đầy.
Thánh truyền thao lược sẵn tài,
Trong thời phục hổ, ra ngoài giáng long.
Rõ ràng là phép huyền-công,
Luyện thành chánh-quả thần-thông dồi dào.
Khi thì thấp, lúc lại cao,
Phân thanh khử trược rõ mầu hư không.
Biết chăng lòng phải dặn lòng,
Thấy chi thời thấy đừng mong luận bàn.
Tu như Chơn-Võ thời Ân,
Hy sanh vì tấm lòng vàng háo sanh.
Giúp cho loài vật đã đành,
Còn dùng phép Đạo vận hành còn nguy.
Ấy là đáng mặt tu trì,
Để đời biết tích mà ghi vào lòng.
Nói về hai chữ "hư-không",
"Hư-không" xét lại nơi lòng thì hay.
Tôn-Sư đã dạy nhiều bài,
Đọa siêu cũng bởi nơi ai xét mình.
Đạo mầu tóm lại "làm thinh",
"Làm thinh" cho trọn mới minh Chơn-Thần.
Nếu tu sớm Sở chiều Tần
Rộn ràng trí não thì thần còn đâu?
Thiên-cung náo loạn Thần hầu,
Trở day e nỗi khó thâu phục về.
Lỡ rồi bít lấp cung nê,
Ngũ-hành vào đó sơn-khê phải đành.
Khuyên tu giữ trọn đức lành
Có ngày huynh đệ cũng thành Đạo cao.
Bần-Đạo khuyên chư hiền hữu hãy vui vì Đạo mà hiệp tác cọng hòa, lo phận sự, trên Tiên-tịch đã nêu tên, quỉ ma khảo thí... Bần-đạo mừng kỹ niệm bồ-đào huynh đệ chung hưởng.
Thi:
Bảng Tiên Thầy đã có ghi rồi
Giữ chặt lòng vàng chớ thả trôi,
Đạo-đức đừng cho sơ-sót mảy,
Giữ gìn khẩu-nghiệp khuyến đôi lời.
Thăng.
14,15 tháng 5 - Kỷ Mão (1939)
CHIẾU-MINH ĐÀN
TRƯỚC TIẾT TÀNG THƠ
CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG, Thầy mừng các con.
Thầy miễn lễ các con nghe dạy:
Thầy hằng độ những con biết hạ mình và hay xét lỗi mình mà không tự cao tự đại, mến Đạo chẳng rời Đạo, một tiết cầm giữ lấy mối khẩu thọ tâm-truyền của Đạo Thầy, hầu khỏi rày chinh mai lệch, cho Đạo Thầy vĩnh viễn trường tồn. Được vậy một là đời gặp Đạo chánh, hai là các con gội ân lành thì quí giá có chi bằng.
Trường Thiên
Đạo CAO Thầy nắm chủ quyền,
Thưởng ban những trẻ bổn nguyên chẳng rời.
Nhứt tâm gìn lấy Đạo Trời,
Tuân câu Thiên-mạng, y lời đinh ninh.
Thanh-liêm thường tập tánh tình,
Không khoe Đạo-đức ỷ mình như ai.
Hằng noi giáo lý Cao-Đài,
Giữ lòng thanh tịnh dỡ hay chẳng bàn.
Tháng ngày lo dứt dây oan,
Đạo đời hai lẽ quyết toan cho tròn.
Đạo lo luyện, Đức lo bòn,
Trong hàng đệ-tử đáng con thảo hiền.
Hành chánh Đạo, giữ chơn truyền,
Không lòng canh-cải mối giềng vô-vi.
Vẹn gìn ngũ-giới tam-qui,
Một câu danh lợi không bì với ai.
Ngày nay chứng vị Liên-Đài,
Tên đề Minh-Huấn là ngày Thiên-phong.
Chi hơn nhuần gội ân hồng,
Thầy truyền dụng phép huyền công giáng đàn.
Ngày nay là ngày Thầy ân phong cho Minh-Huấn là ĐẠO-ĐỨC KIM-TIÊN, vậy các con nên hiểu. Thăng.
(Tiếp Điễn:)
Thi:
ĐẠO thành nhờ giữ đúng chơn truyền,
ĐỨC tốt không làm sái bổn-nguyên,
KIM thạch hằng gìn câu chánh-niệm,
TIÊN-đài nay đặng tọa kim-liên.
Giờ nay Bần-Đạo đã đắc lịnh Thầy giáng đàn mừng chư Đạo-hữu và cũng có nhiều quan niệm về Đạo-đức.
Từ ngày Bần-Đạo được Đơn-Thơ chiếu triệu về Thầy đến nay, Bần-Đạo mới rõ luật Thiên-Đình chẳng riêng vị, một mảy không sai với người tội phước. Chư Đạo hữu nên hiểu người tu vào bực Đại-Thừa hành đúng chơn-truyền chẳng trái lý Đạo thì Thầy điểm hóa, đến ngày lâm chung Đơn-Thơ chiếu hạ mới đặng chứng quả vị gần Thầy. Còn người tu mà hay dụng tự ý, làm cho trái lẽ tự-nhiên, hay sanh sự và tưởng sự quấy là hay là phải, chẳng tuân Thiên ý, dầu có tu cũng khó mong kết quả; đến ngày lâm chung nguơn-thần xuất được mà chẳng có Đơn-Thơ thì đâu về chứng quả đặng. Chừng ấy ăn năn đã muộn, phải chịu dưới quyền luật thưởng phạt của Tạo-Hóa. Vậy chư Đạo hữu phận sự hãy do theo chơn-truyền mà hành cho đúng lý Thiên-nhiên. Ngoài những lời Thầy truyền chẳng nên nghe, vậy mới ngăn ngừa cơ Đạo sau này khỏi sai tôn chỉ; Bởi vì Đạo Thầy truyền xuống thế để độ những người nguyên-nhơn nào phải độ kẻ hóa-nhơn. Ấy là cơ tuyển độ. Nếu chư Đạo hữu chẳng để cho Thầy lừa lọc mà dùng tự ý độ kẻ hóa-nhơn xen vào làm cho rối Đạo sanh thêm điều khảo đảo, mượn lấy danh Đạo mà làm cho nhơ Đạo. Vậy từ đây chư Đạo-hữu khá dè dặt cho khỏi trái ý Thầy thì sau khỏi ăn năn.
Thi:
Nỗi Đạo vì đời phải đắn đo,
Thì sao cho đáng phận làm trò!
Thà nương ngọn phướn vô-vi nhỏ,
Hơn phất cây cờ dục vọng to.
Ông Tạo sẵn gầy đường sáng suốt,
Xe trầm nên tránh nẻo cong-co,
Vui buồn mét thót đôi câu chuyện.
Hay dỡ đừng chê chí gắng dò.
Bần Đạo hỉ chư Đạo hữu. Thăng.
23 tháng 9 - Tân Tỵ (1941)
Thi
CAO ban ân tứ kẻ dày công,
ĐÀI ngọc ngôi Tiên sắc lịnh phong,
GIÁO huấn trọn gìn lời giáo huấn,
CHỦ tâm chiếu triệu đến Non Bồng.
Thầy mừng các con.
Giờ nay Thầy giáng đàn phong sắc lịnh cho Vĩnh. Vậy các con khá tịnh tâm tiếp điễn.
(Tiếp Cầu:)
Thi
LINH tánh vui thay thoát kiếp trần,
BỬU đài mừng đặng náu nương thân,
CHƠN truyền nhờ trước dày công luyện,
NHƠN quả đền xong hết mấy phần.
Tôi chào chư Đạo-hữu.
Ngày nay tôi được Thầy ban ơn cho tôi giáng đàn đồng vui vầy cùng chư Đạo-hữu.
Thi Bài
Cơ vận chuyển Đạo khai cứu thế,
Cuộc tuần huờn độ kẻ thiện căn,
Pháp mầu Thầy bủa lưới giăng,
Lọc lừa kẻ tỉnh, sảy cằn người mê.
Ai cũng biết nhan đề chánh Đạo,
Mà xét vì chẳng thạo đường tu,
Mảng lo vật chất võng dù,
Quyền cao lộc cả mịt mù Đạo-tâm.
Bần Đạo đây cũng lầm một lúc,
Sau nhờ Thầy tỉnh giấc nam-kha,
Biết phân hai lẽ chánh tà,
Biết rằng cũng có Phật, ma hai đường.
Chừng ấy mới tầm phương giải thoát,
Dưới chơn Thầy mặn lạc cũng cam,
Cho hay còn nặng xác phàm,
Mấy ai tránh khỏi sự lầm lạc sai.
Nhờ tin tưởng Cao-Đài có một,
Ẩn mình trong then chốt của Thầy,
Mặc dầu trăm đắng ngàn cay,
Cũng đành chịu khổ theo Thầy đó thôi.
Ngày nay đã dứt rồi nợ thế,
Khỏi lo điều dâu-bể tang-thương,
Thung-dung nơi chốn Thiên-Đường,
Sớm chầu Bệ-Ngọc, chiều thường công-phu.
Nhờ chịu khổ mấy thu tu luyện,
Đến ngày cùng chẳng biến Đạo-tâm,
Nên Thầy bố đức cao thâm,
Lò-cừ tránh khỏi luân trầm đảo điên.
Nợ nhơn-quả tiền khiên đã dứt,
Để lưu truyền nghi thức Tàng Thơ,
Tháng ngày gìn giữ phượng thờ,
Thì còn hồng phước hưởng nhờ về sau.
Chư Đạo hữu công lao khó nhọc,
Mấy năm dư lừa lọc trược thanh,
Đạo cao rồi sẽ đắc thành,
Đường dê ngựa chạy phướn lành tay nương.
Nay giáng bút tỏ tường sau trước,
Khuyên đệ huynh gắng bước theo Thầy,
Đạo mầu càng luyện càng hay,
Càng cao phẩm vị càng dày Đạo-tâm.
Thăng.
5 tháng 8 - Đinh Sửu (1937)
CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ
Thầy mừng các con nam nữ.
Đàn nay Thầy ân phong cho Chiêm là "ĐẠO-NGẠN CHƠN-QUÂN", vậy các con tiếp cầu, Thầy phản giá.
(Tiếp Cầu:)
Thi:
ĐẠO mầu Trần thiết độ người theo,
NGẠN thượng Văn hào cũng khó leo,
CHƠN giả dầu ai Chiêm ngưỡng mộ,
QUÂN thần nếu tưởng bảng Tiên bêu.
Chào chư đại-sư-huynh, sư-tỷ, cùng chư Đạo-huynh, Đạo-tỷ chung cuộc vui mừng cho em ngày hôm nay phục hồi, đắc thành chánh-quả.
Thi:
Nhắc nhở cùng nhau một ít lời,
Cuộc cờ xáo lộn lắm ai ôi!
Vững tâm Đạo-đức ngày đêm luyện,
Mở nẻo tu ra sớm độ đời.
Thi Bài:
Đời lộn kiếp nghĩ càng gớm ghiếc,
Chước mị tà quỉ quyệt nhử câu,
Người đời trong cuộc bể dâu,
Tránh nơi nào khỏi thảm sầu đắng cay.
Nợ nhơn quả có vay có trả,
Thiệt là đời dối giả biết bao!
Say mê đâu có nhớ nào,
Tám mươi mốt kiếp lộn nhào chuyển luân.
Nhớ tới bắt rưng rưng giọt lệ,
Quả nhồi cho sự tệ nhiều lần,
Khổ thay lăn lóc bụi trần,
Có nhiều kiếp đọa hóa thân thú cầm.
Bởi muội trí lạc lầm tội lỗi,
Lớp thú thay, rồi đổi lớp người,
Lắm khi khóc lẫn lộn cười,
Đọa đày đến thế thì thôi còn gì!
Xưa ở chốn Cung Vi thong thả,
Phạm Thiên-điều mắc đọa phải cam,
Lỡ tay nên chịu nhún chàm,
Rủi ro mang lấy vóc phàm bấy lâu.
Thân dày-dạn dãi-dầu chịu đã,
Bị mê theo miếng bã lợi danh,
Nhiều khi vào tử ra sanh,
Xông pha tên đạn, nhọc nhằn lao lung.
Nổ chí khí anh-hùng giúp thế,
Trương cánh vây cứu tế vạn dân,
Ba phen đã lánh phong trần,
Bị chưng lục-đạo chẳng gần cựu ngôi.
Vì mới quá, yếu điễn, sau sẽ tiếp. Thăng.
5 tháng 9 - Mậu Tý (1948)
CHIẾU MINH - PHÚ LÂM ĐÀN
CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ
Thầy các con, Thầy mừng các con nam nữ.
Đàn nay Thầy chứng lòng thành nguyện của các con, vậy Thầy ân phong cho Mười là THANH-HƯ ĐẠO-NHƠN. Các con tiếp cầu, Thầy thượng ỷ.
(Tiếp Cầu:)
Thi:
THANH tịnh giồi trau Đạo tối cần,
HƯ vô bồi bổ thể kim thân,
ĐẠO thành Nam-Đẩu Tinh-Quân chiếu,
NHƠN quả trả xong đặng thoát trần.
Hựu:
Trần thế là nơi tạo chuỗi phiền,
Lo tu sao đặng phản huờn nguyên,
Bàn-Đào, Động-Phủ là ngôi báu,
Sớm tối vào ra trước bệ tiền.
Hựu:
Bệ tiền chầu chực Tiên-Ông.
Cao-Đài Thượng-Đế dày công độ đời.
Ban truyền ĐẠI-ĐẠO khắp nơi,
Độ người căn thiện thoát đời trầm luân.
Bần-Đạo mừng chư Đạo hữu.
Trường Thiên
Cảm tình đồng Đạo tri âm,
Cầu Thầy đảnh lễ thành tâm khẩn nguyền.
Từ bi Thánh-ý ban truyền,
Cho tôi tiếp xúc chư hiền đàn trung.
Thú vui bút tỏa chẳng cùng,
Mừng nhau hỉ hạ đôi chung rượu nồng.
Việc đời thấy đó huờn không,
Rõ cơ Tạo-Hóa giữ lòng lo tu.
Đạo thành về chốn thanh-u,
Cờ Tiên ruợu Thánh muôn thu hưởng nhàn.
Lánh đời khỏi tạo trái oan,
Dẹp lòng nhơn dục mưu toan lợi quyền.
Học đòi hạnh đức Thánh Hiền,
Từ-bi bác-ái cần chuyên tu-hành.
Phật Tiên năng độ chúng-sanh,
Thoát vòng cương tỏa về thành Nhụy-Châu.
Trò đời lắm cuộc bể dâu,
Tang thương biến chuyển có đâu vững bền.
Lo tu cảnh lạc lần lên,
Trau giồi Đạo-đức lập nền Tiên-gia.
Đào-Nguyên Động-Phủ quê nhà,
Dinh hoàn cõi tạm đây là mê tân.
Nhớ khi còn ở dưới trần,
Tu-hành phải chịu lắm phần cam go.
Quanh năm thủ phận làm trò,
Tội căn sám hối lần dò thang Tiên.
Ngày nay đắc chí phỉ nguyền,
Để lời nhắc nhở bạn hiền cố giao.
Bá tòng lập chí thanh cao,
Tu thành chánh quả Bàn-Đào vầy vui.
Giờ nay kẻ ở người lui,
Tiên phàm chia cách chưa nguôi tất lòng.
Thăng.
4 tháng 11 - Giáp Tuất (1934)
Thi:
CAO tột hư vô Thái-Cực-Hoàng,
ĐÀI linh ứng hóa độ phàm gian,
CHƯỞNG khai mối Đạo lưu truyền khắp,
GIÁO dục quần sanh giải ách nàn.
Các con thành tâm, Thầy cho NGỌC-THIÊN TIÊN-NƯƠNG giáng. Thầy phản giá.
* * * * *
Thi:
NGỌC quí ngày nay mới biết thờ,
THIÊN-cơ há để lộ hờ ơ,
TIÊN phàm do bởi tâm minh-mẫn,
NƯƠNG bạn tu-hành kịp buổi sơ.
Tôi chào mừng hiền-huynh, các hiền-muội. Nay tôi đắc lịnh giáng đàn tỏ đôi lời hơn thiệt
Phú:
Từ Ngọc-Sắc chín từng mây bạc,
Rảnh kiếp trần cỡi hạc về quê,
Ơn Thầy ban dưới bệ dựa kề,
Hầu Ngọc-Đế ngàn thu thong thả.
Nợ đã mãn, ơn đền nghĩa trả,
Hiển Đạo mầu, ngọc hóa đài mây,
Khép nép hầu dưới bệ tỏ bày,
Trình công quả đặng vào Cung Ngọc.
Cơ tiền định chính Thầy lừa lọc,
Hai mươi trò nơi góc Trời Nam,
Cũng cùng chung phụng mạng xuống phàm,
Nay gặp hội Cao-Đài truyền giáo.
Lòng tỉnh ngộ tầm sư học Đạo,
Thọ chơn truyền bổn thảo Tam-Thanh.
Nhờ công phu Đạo pháp vận hành,
Căn duyên mãn đắc thành quả vị.
Nương cơ Ngọc để lời chú ký,
Cho người đời rõ lý thiên-nhiên,
Hầu tầm tu siêu-rỗi cửu-huyền,
Cùng thất-tổ huờn nguyên nhứt mạch.
Em về mới biết rõ cơ Trời lồng-lộng, vậy em khuyên chư hiền rán lo tu-hành, may ngày sau cùng nhau chung dưới bệ. Vậy phải trả, trả đến giờ chót... Thăng.
9 tháng Giêng - Tân Tỵ (1941)
Thi:
CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ chiếu quang minh,
Ban bố hồng ân trẻ Đạo thành,
Một tấc lòng thành Thiên Địa chứng,
Mừng chung con trẻ rạng danh thinh.
Ngày lành tháng tốt Thầy cùng Tiên, Phật giá lâm.
Thầy ban ơn hạ lịnh ân phong cho Hội giáng đàn cùng các con hoan lạc. Thầy thượng ỷ.
(Tiếp Cầu:)
Thi:
NGỌC cung vui bấy thú yên hà,
BỬU pháp rạng ngời mấy độ xa,
NƯƠNG cảnh Thần Tiên Trời thưởng tứ,
NƯƠNG mây giá hạc dạo ta-bà.
Tôi mừng chung chư Đạo-hữu nam nữ. Ngày lành gội ơn lành Thầy ban và đắc lịnh giáng đàn cùng chư Đạo-hữu vui vầy. Từ ngày thọ chơn-pháp của Thầy hằng giữ chơn tâm tu-hành, thường lấy chữ tín-thành làm gốc, nhứt tâm, nhứt đức, không dời không đổi, cứ y pháp hành trì, tứ thời giữ vẹn, nên Thầy vì thế mà độ tôi về Tiên cảnh an hưởng thú thanh nhàn nơi lạc vị.
Trường Thiên:
Từ ngày rảnh nợ trần ai,
Hồn về lạc cảnh bệ giai chầu Thầy.
Gội nhuần võ lộ vui say,
Ân phong chức lãnh Diêu-Đài ở an.
Thú vui báu lạ muôn ngàn,
Đờn linh tao nhã hội bàn-đào Tiên.
Toại lòng kề chốn bổn nguyên,
Ngôi cao phẩm báu hiện tiền đua xinh.
Tiên cung rày đã khỏe mình,
Từ đây lánh nẻo gập-ghình thế gian.
Mừng nay đắc lịnh giáng đàn,
Cùng chư Đạo-hữu nhứt tràng lạc hoan.
Nghĩ vì cuộc thế đa đoan,
Buồn câu oan-trái buộc ràng người chơn
Tu là gieo hột kim-đơn,
Giống lành nên giống nhờ ơn quả lành.
Thầy hằng độ dẫn chúng-sanh,
Thoát vòng khổ não Đạo thành qui căn.
Tu là hồn đặng siêu thăng,
Thế gian so sánh chi bằng đó ai!
Duyên may gội đức CAO-ĐÀI,
Thầy Trời xuống thế chỉ bày Thiên-cơ.
Mỗi người trao bức đồ-thơ,
Đơn-phòng kín cất đợi giờ phi thăng.
Đạo lành hết võ rồi văn,
Hành cho đúng phép dò phăng mối giềng.
Gìn lòng hai chữ tịnh yên,
Ngừa cơn sóng gió con thuyền ngoài khơi.
Biết tu thì biết luật Trời,
Công bình hai chữ chẳng dời chẳng thay.
Đạo cao khá lập đức dày,
Đạo cao sẽ biết cái tài ma cao.
Anh hùng chí khí đừng nao,
Trường thi Đạo-đức anh hào mới nên.
Khảo cho biết bỡ hay bền,
Năm ba độ khảo tuổi tên bảng đề.
Chờ ngày chiếu Ngọc Thầy phê,
Mới mong thoát tục đặng về non Tiên.
Đã mừng bạn đạo hữu duyên,
Tường trong lý nhiệm tâm-truyền Thầy trao.
Ấy là quí giá biết bao,
Tháng ngày bốn buổi cần trau cho thuần.
Cơ mầu vui với ngày xuân,
Đôi lời mừng chúc mấy từng Đạo cao.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Tôi chào mừng chư Đạo hữu nam nữ. Tôi xuất cơ.
Thăng.
16 tháng 5 - Đinh Sửu (1937)
"CHIẾU MINH" - LONG ẨN ĐÀN
Thi:
CAO phẩm Thiên-ân chiếu sắc phong,
ĐÀI quang siêu rỗi độ nhơn giòng,
Cứu nguy chủng loại ra khuôn khổ,
Thế buổi hạ-nguơn Đạo pháp thông.
Thầy các con. Thầy mừng các con.
Hôm nay đến kỳ Bá Nhựt, các con hội hiệp nơi đàn lập lễ vui mừng cho chơn-linh của Đê được sớm phản hồi cựu vị, chứng quả kim-thân. Vậy Thầy ân phong cho Đê là "NGỌC-DIÊU TIÊN-NƯƠNG" và hạ lịnh cho giáng đàn, các con tiếp cầu, Thầy thượng ỷ.
(Tiếp Cầu)
Tôi chào mừng quí hiền-huynh, cùng quí hiền-tỷ, quí hiền-hữu cùng hiền-muội.
Thi:
NGỌC quí nhưng còn kém vẻ ngân,
DIÊU-Cung rày đã ở yên phần,
TIÊN-Thiên cảnh vật vui chi xiết,
NƯƠNG bóng từ-bi mát mẽ thân.
Hựu:
Mừng mừng cõi thọ được vào ra,
Mến nghĩa chị em hội một nhà,
Kẻ ở dương trần người cựu vị,
Trông chờ em chị trở về qua (quê).
Tôi rất hữu phần được Đức Từ-Bi gia ân xuống phước độ dẫn được về đến cõi Thiên-Đàng cùng gia ban phẩm vị, chớ sanh tiền công-đức kém sút, ngày nay quá tiếc nhưng chẳng biết làm sao. Tuy đã đặng thung-dung nơi cõi thọ nhưng cũng còn phải lo tu luyện thêm cho đầy ba phẩm, còn chư Đạo-hữu nay còn ở thế rán gắng công trì chí luyện cho đầy đủ, nguơn-thần cứng cát, ngày sau chứng quả vị thanh cao.
Xưa tôi tu hành lôi thôi hơn chư Đạo-hữu, nhưng vì vắn số trần, nhờ đức Từ-Bi hóa độ. Nay tôi làm một bài phú thất ngôn để kỹ niệm.
Phú Thất Ngôn:
Nhờ kiếp trước dày công tu luyện,
Nên ngày nay mới chuyển kịp kỳ,
Ngộ chơn-truyền chánh-pháp vô-vi,
Trên có đức Từ-Bi hóa độ.
Đặng siêu thoát khỏi vòng tứ khổ,
Nương thuyền từ phản bộ Tiên-Cung.
Khi vào ra vui hứng bá tùng,
Lúc ngoạn cảnh thung-dung nhàn lạc.
Nghĩ lại ngán thói đời đen bạc,
Mảng tranh đua sống thác nào hay,
Chốn gian hồng một cuộc trả vay,
Rồi cũng nắm hai bàn tay trắng.
Biết dã tật sợ chi thuốc đắng,
Muốn siêu phàm phải gắng công phu,
Vì lẽ hằng ngoạt nhiễm nhựt nhu,
Tu nhứt kiếp thanh-u thoát hóa.
Chư hiền ôi! phải bền chí cả,
Luyện đơn thành chánh quả Chơn-Nhơn,
Người ở đời họa phước đòi cơn,
Vui cửa Đạo thua hơn nào nại.
Lo cư xử cho tròn nhơn ngãi,
Học từ-hòa bác-ái thiện-lương,
Hầu ngày sau tích để làm gương,
Cho kẻ thế tầm đường chánh-giác.
Này chư Đạo-hữu ôi! Đời là giã cuộc, là chốn bể khổ thành sầu, chôn lấp biết bao chơn-linh trụy lạc, tình đời rất nên tráo chác, lắm lúc mặn nồng, nhiều khi cay đắng, ít nẽo thẳng, lắm đàng quanh. Chư Đạo hữu nhờ lòng giác ngộ lập chí lo tu hành ấy là phương siêu việt, nên coi sự lợi danh nhẹ như lông hồng, mồi phú quí như sương sa bọt nước.
Đời trăm tuổi ít người, Đạo muôn thu chẳng hoại.
Thăng.
27 tháng Tư - Bính Tuất (1946)
Thi:
GIÁC hải đưa người tách bến mê,
MINH châu cố cảnh hiệp qui về,
KIM-Bàn Ngọc-Lộ thần linh tại,
TIÊN tịch chánh danh chữ rạng đề.
Bần-Đạo mừng chư Đạo-đệ cùng chư Đạo-muội.
Người tu ai cũng ước mong cho mau đặng thành công đắc quả, nhưng vậy cũng có kẻ tu mau mà đặng thành, còn cũng có người tu lâu mà chưa liễu. Ấy là do nơi số kiếp nhân duyên của mỗi người. Nhưng hễ có chí thành giữ lo tu hành cho đúng Đạo thì cũng có ngày Tiên tịch nêu danh, đắc thành Đại-Đạo.
Đàn nay Bần Đạo đắc lịnh Sư-Phụ chứng lễ trăm ngày để gia phong cho Trong là "NGỘ-TÁNH CHƠN-NHƠN". Vậy chư Đạo-đệ tiếp cầu, Bần-Đạo xuất cơ.
(Tiếp cầu:)
Thi:
NGỘ đặng Đạo Trời quí biết bao,
TÁNH lành một kiếp rán giồi trau,
CHƠN như siêu xuất về Tiên cảnh,
NHƠN quả trả xong hưởng Động-Đào.
* * *
Đào-Viên còn đợi hội Long-Vân,
Chín phẩm liên-hoa sắp vị phần,
Tiên, Phật hai đường tùy phước đức,
Thấp cao ba bực bởi nguyên nhân.
Chào mừng chư huynh đệ lưỡng phái; Chư huynh đệ an tọa, bất thủ lễ.
Tôi khi thoát đặng khỏi xác phàm trọng trược rồi mới rõ kiếp sống của con người ở cõi tạm này thật là vô vị, chỉ trả nợ tiền khiên, đáp đền câu oan trái. Kẻ mụi Đạo tham luyến hồng trần, gây câu nhân-quả thì phải bị quẩn quanh trong vòng vay trả, chuyển kiếp luân-hồi. Còn người có lương tri, lương năng, biết hồi đầu hướng thiện sửa tánh tu tâm thì đặng vào đường chánh Đạo, luyện đắc kim-thân, thoát vòng cương tỏa, chứng quả Bồ-Đề nơi cựu quê cố cảnh.
Thi:
Mừng mừng tủi tủi lại vui vui,
Mừng bởi tôi nay rõ Đạo mùi,
Tủi bấy đệ huynh còn ở thế,
Vui ngày đoàn tụ mới là vui.
Trường Thiên:
Nay tôi đặng ân phong Thiên-Tước,
Ấy cũng nhờ ngày trước tu-hành,
Kiếp này giác ngộ Đạo lành,
Dày công khổ luyện đắc thành vị ngôi.
Đã chí dốc làm tôi Thượng-Đế,
Thì thân này có kể chi danh,
Lánh nên xa-mã thị-thành,
Noi gương Tiên, Phật ấn hành sử kinh.
Nổi ma khảo thiên hình vạn trạng,
Cũng cứ làm mặt dạn mày dày,
Đạo thơ gắng chí dồi mài,
Công viên quả mãn Bồng-Lai đặng vào.
Thanh tịnh bấy sen chào cúc nở,
Êm đềm thay cảnh ở Tiên cung,
Hoa thơm phưởng-phất ngàn trùng,
Cực kỳ mỹ lệ vô cùng thanh quang.
Nay động-phủ dưỡng an bổn thể,
Xót vì tình huynh đệ ngày xưa,
Thân còn dầm dãi nắng mưa,
Cùng đời lẫn-lộn tương dưa khổ lòng.
Ấy cũng bởi Hóa-Công tiền định,
Phận làm trò đợi lịnh Thầy ban,
Tuy nay Tiên, tục đôi phương,
Ngày cùng rồi cũng nhứt tràng hiệp qui.
Thế sợ nỗi sanh ly tử biệt,
Ấy cũng vì chẳng biết nguyên nhân,
Người tu luyện đặng thức thần,
Thoát vòng cương tỏa muôn phần thung-dung.
Nay huynh đệ Cửu-Trùng đợi lịnh,
Gần ngày cùng chấn chỉnh đường tu,
Công trình, công quả, công phu,
Đạo mầu hiển đạt thanh-u đề vời.
Tình tri kỷ để lời mách thót,
Rán tu sao ngày chót gặp Thầy,
Cảnh Tiên huynh đệ sum vầy,
Bàn-Đào cọng hưởng là ngày Long-Vân.
Thi:
Bồ-đào nội hóa tửu Nam Phương,
Chẳng phải quỳnh-tương chốn Phật đường,
Đạm-bạc cùng nhau ngày kỷ-niệm,
Tiên phàm chia cách rẽ đôi đường.
Thăng.
15 tháng 4 - Ất Dậu (1945)
CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ
Thầy mừng các con nam nữ.
Thi:
Tu-hành chịu khổ một phen nầy,
Sao đặng tiêu-diêu chốn lạc-đài,
Thoát kiếp luân-hồi muôn tuổi thọ,
Khỏi vòng lục-đạo dứt trần ai.
Tiêu-diêu cảnh cũ vô phiền não,
Tự toại quê xưa bất tái lai,
Một bổn Đơn-Thơ thầy tạc để,
Muốn nên căn-vị gắng công mài.
Thầy chứng chiếu sớ cầu và lòng thành nguyện của các con giờ nay, vậy Thầy ân phong cho Hóa Đạo-hiệu là "NGỌC-HOA TIÊN-NƯƠNG". Các con tiếp cầu, Thầy thượng ỷ.
(Tiếp Cầu:)
Thi:
NGỌC ẩn non kỳ phụng gáy vang,
HOA-liên chín phẩm tựa ngôi vàng,
TIÊN-đơn phản chiếu thành căn vị,
NƯƠNG bóng Đài-Cao dứt trái oan.
Thi:
Oan trái bao phen buộc lấy thân,
Mừng nay đặng rảnh kiếp phong trần,
Ơn Thầy, nghĩa bạn hằng ghi tạc,
Dạ sắc, lòng son Đạo tối cần.
Mừng chư Đạo-hữu nội đàn.
Nay tôi đặng thoát kiếp phong-trần cũng nhờ đức Từ-Bi độ rỗi, chớ về tu luyện của tôi còn khiếm khuyết, nhưng may là nhờ thời kỳ ân xá. Nay tôi mới rõ, đời người chẳng khác nào như mù tan, sương rã, thoạt qua thoạt mất, trăm năm như giấc chiêm bao, ở thế cuộc muôn điều giả dối, biết lo tu, ơn Thầy nhuần gội, thoát ly trần trở lại cựu quê.
Bài:
Từ đắc lịnh Cửu-Trùng hạ chiếu,
Bỏ xác phàm mới hiểu cơ quan,
Thảm thay thế-cuộc thương-tang,
Làm người phải chịu lầm-than nhiều bề.
Nay tôi đặng trở về quê cũ,
Động Đào-Nguyên thi phú nôm na,
Non Tiên mặc sức ta-bà,
Sớm chầu Bệ-Ngọc chiều hòa bạn thanh.
Chỉ một kiếp tu-hành quấy quá,
Đức Từ-Bi ân-xá độ về,
Cảnh nhàn lạc thú tư bề,
Hào quang sáng-rỡ cỏ huê đủ màu.
Ngoảnh lại chốn trần lao thêm chạnh,
Cảnh bi ai nóng lạnh bất thường,
Trăm năm như giấc mộng trường,
Làm người khá xét cho tường bổn-nguyên.
Chư Đạo-hữu có duyên có trí,
Lập chí tu "chánh-kỷ hoá-nhơn",
Luyện thành ba phẩm kim-đơn,
Đồng về thắng cảnh linh-sơn hội đào.
Lời thường ví Trời cao có mắt,
Sanh nhằm kỳ mạc-trắc phong-vân,
Còn ham bã đỉnh chung trần,
Trăm năm phải chịu vùi thân bụi hồng.
Nay tôi đặng ân phong Tiên-tịch,
Để đôi lời khuyến-khích cùng nhau,
Đạo-mầu gắng chí giồi-trau,
Ngày cùng sẽ đặng dồi-dào phước thanh.
Giã chư Đạo-hữu. Thăng.
TIÊN PHONG
CÀN TỊCH
|
Danh |
Minh-Khai Kim-Tiên |
Phan-Tấn-Lộc |
Nhứt-Bửu Chơn-Nhơn |
Nguyễn-Thiện-Thượng |
Minh-Bửu Đạo-Nhơn |
Minh-Tạo |
Tam-Bửu Chơn-Nhơn |
Minh-Hào |
Giác-Ngộ Chơn-Nhơn |
Nguyễn-Văn-Dõng |
Chánh-Giác Chơn-Nhơn |
Minh-Thêm |
Diệu-Giác Chơn-Nhơn |
Minh-Cẩm |
Giác-Ngạn Chơn-Nhơn |
Minh-Song |
Giác-Thiện Chơn-Nhơn |
Phan-Quan |
Từ-Minh Chơn-Nhơn |
Minh-Ai |
Huệ-Pháp Chơn-Nhơn |
Minh-Giác |
Thanh-Bửu Đạo-Nhơn |
Lê-Minh-Khương |
Chơn-Bửu Đạo-Nhơn |
Minh-Tiên |
Hạnh-Bửu Đạo-Nhơn |
Minh-Khai |
Chơn-Minh Đạo-Nhơn |
Minh-Hương |
Huệ-Chiếu Đạo-Nhơn |
Minh-Bảy |
Quảng-Pháp Đạo-Nhơn |
Nguyễn-Văn-Mùi |
Giác-Bửu Chơn-Quân |
Minh-Dậm |
Pháp-Bửu Chơn-Quân |
Minh-Môn |
Bửu-Giám Chơn-Quân |
Minh-Xưa |
Bửu-Đảnh Chơn-Quân |
Minh-Se |
Lạc-Thiện Chơn-Quân |
Minh-Kẹm |
Văn-Thiện Chơn-Quân |
Nguyễn-Văn-Hanh |
Khải-Ngộ Chơn-Quân |
Minh-Thời |
Âu-Thiên-Quân |
Minh-Inh |
Phổ-Đức Thiên-Quân |
Trần-Minh-Lục |
Hải-Huệ Chơn-Quân |
Hoàng-Huy-Hòa |
Thiên-Bảo Tướng-Quân |
Kiều-Công-Kiệm |
Chơn-Thanh Sứ-Giả |
Ngô-Văn-Tịnh |
Kim-Phan Đồng-Tử |
Minh-Huỳnh |
Linh-Bửu Thiên-Đồng |
Minh-Lầu |
Phù-Sứ-Giả |
Nguyễn-Đăng-Khoa |
KHÔN TỊCH
|
Trương-Thị-Sâm |
Ngọc-Thanh Tiên-Nương |
Minh-Thanh |
Ngọc-Đảnh Tiên-Nương |
Minh-Cảnh |
Ngọc-Bổn Tiên-Nương |
Minh-Của |
Ngọc-Đô Tiên-Nữ |
Minh-Thương |
Thanh-Thiên Tiên-Nương |
Minh-Ngài |
Diệu-Hạnh Tiên-Nương |
Phạm-Thị-Tất |
Ngọc-Linh Tiên-Nữ |
Lương-Thị-An |
Ngọc-Quyện Tiên-Nương |
Nguyễn-Thị-Đát |
Từ-Huệ Tiên-Nương |
Minh-Thình |
Ngọc-Liên Tiên-Nương |
Minh-Trâm |