MƯỜI HAI PHÁI ĐẠO CAO-ĐÀI
(Tòa-Thánh Châu-Minh, ngày 10-1 năm Đại-Đạo thứ 32, Đinh Dậu 1957)
Bài:
Niên Đinh Dậu, ĐẠO ba hai lẻ,
THẦY thấy con còn rẽ chia nhau,
Như vầy THẦY rất lòng đau,
Bởi nên THẦY mới chuyển mau hội nầy.
Hội BÌNH-LINH Thầy xây vận chuyển,
Cho các con hội diện sum vầy,
Để Thầy cạn lẽ phân bày,
Cho con lớn nhỏ đồng hay máy Trời.
Thầy nhắc lại thời kỳ khai Đạo,
Buổi đầu tiên Thầy tạo Chiếu-Minh,
Rồi lần sang đến Tây-Ninh,
Mở Minh-Chơn-Đạo công trình biết bao!
Lập Tiên-Thiên Thầy trao gánh nặng,
Ban Chỉnh Đạo cũng đặng vẹn toàn,
Tây-Tông Vô-Cực tịnh an,
Bạch-Y Thầy mở liên đoàn Hậu-Giang.
Trung-Hòa Phái khó toan tiến bộ,
Tịch-Cốc thi hành lố Thiên-Cơ,
Mở Minh-Chơn-Lý kịp giờ,
Liên-Hoa Tổng-Hội thời cơ anh tài.
Rồi lần đến Cao-Đài Hội Giáo,
Mười hai chi Thầy tạo đủ rồi,
Cao-Đài Thống Nhứt ra đời,
Thầy giao con hiệp coi thời ra sao?
Trải bao năm phong trào sôi nổi,
Để tự con trao đổi ý nhau,
Thời gian im bặt qua mau,
Nay Thầy xem lại vẫn màu rẽ chia!
Sự rẽ chia tại lìa căn bản,
Thầy phân qua, chẳng hãn tường tri,
Thầy dạy con hiệp, con qui,
Hiệp là không nghịch, qui y chơn truyền.
Bề hình thức tư riêng mỗi phái,
Là ý Thầy muốn dạy các con,
Giao tay lãnh đạo hành tròn,
Dìu đường sanh chúng, phận con làm đầu.
Mười hai phái do đâu mà có?
Gốc Cao-Đài tách ngõ phân ra,
Cũng như Thầy tạo cái nhà,
Có mười hai cửa vào ra tự lòng.
Nhưng làm Chủ-Nhơn-Ông có một,
Lại tỉ như giống tốt Thầy gieo,
Mười hai thứ giống tùy theo,
Con nào muốn cấy giống nào cũng xong.
Vỏ tuy khác mà trong vẫn gạo,
Nấu chín rồi vẫn bảo là cơm,
Dầu phân gạo nhỏ, gạo thơm,
Gạo nào thì cũng nuôi con no lòng.
ĐẠO cũng thế, Thầy mong con trẻ,
Dầu phái nào, chớ tẻ tách nhau,
Dầu cho khác sắc, khác màu,
Chơn-truyền có một, không cao thấp gì.
Đâu cũng gọi TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ,
Đâu cũng THẦY, danh ngã CAO-ĐÀI,
Dầu cho đấy dở, đó hay,
Đỡ nưng mới phải, đừng bài bác nhau.