Ngày 4 tháng 4 Năm 2020
Đàn Tràng Nam Thành
Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền
Tiếp Điển Ứng Khẩu Lưu Xuất Thánh Giáo
Bấm Vào Thanh Để Nghe
PHÁP ÂM 2020_32
Trăm đổi thay tuồng đời tạo lấy
Ngày tháng đưa gió cuốn nay mai
Ai tồn tại Ngươn Hạ nạn eo
Chờ THIÊN LỊNH luận bàn tái lại.
Bớ nữ nam định tâm đường lối
Đáp chữ HIỀN lời nói sửa mình
Thương xót cho sa cơ liệu tính
Dạ NGỌC sầu tu tỉnh đáp ơn.
Một ba quay lại gần già
Bàn đen bàn trắng lựa mà định phân
Ba một tiêu mất thảm dân
Qua sông mấy khúc được gần Phật Tiên.
[13 quay lại tức là 31, năm 2031?]
Một hai đã đến không yên
Đông Nam bi tuyệt luật thuyền từ quy
Trời xanh vạn vật điều chi
Ngó mà mới thấy huyền vi cơ Trời.
Chẳng lo an phận tu thời
Ngày giờ khó chịu trai dời gái thay
Đêm khuya trăng lặn khóc ai
Thuyền ai nấy chạy Trời xoay hóa trò.
Người trần tu mãi vẫn hung
Chừng nào sấm nổ biết dung người nào
Coi chừng đếm đủ còn bao
Một hai cá thoát khỏi ao dập bầm.
Đổi đời đổi dạ bám lầm
Uổng thay một kiếp thuyền âm cung tỳ
Người khôn mau khá chỉnh y
LONG HOA trở lại long phi đại thời.
Phận Đông Tây Nam Bắc bốn phương
Vũ trụ oai danh độ an trường
Phong ba một cuộc rã rời cả
Lâm thế di san thấy xót thương.
Chúng sanh thoát khỏi cơn nguy đạo
PHONG THẦN ĐẠI HỘI [TAM] GIÁO XUỐNG NÀO
Chuyển xoay tứ hướng trần nạn khổ
Mắc nạn thế gian tục ba đào.
NHẬP THÁNH THỂ DÒ ĐƯỜNG CỨU CHÚNG
Gọi mê đồ chơn dụng bước soi
Phật Tiên phổ dẫn đường chỉ lối
Gieo giống lành cứu đời từ bi.
LƯỢNG ĐỨC CẢ CHỐN NGƯỜI CĂN VỊ
Bớt kẻ mê xa mị mộng trần
Khỏi phong bổ biến tai chuyển vận
Khỏi cảnh trần dương loạn chúng sanh.
Biết ơn mạt kiếp vây tứ cảnh
Lặn hụp lao xao tránh nơi nào
NGỌC HOÀNG định tất thức tầm đạo
Thức lo tu mòn hao nay tận.
Cõi Ta Bà ai đặng thoát luân?
Khó khổn thay năm Thân uổng kiếp!
Hồng diên hai chín tỏ khi lu
Oai Thần trống điển vọng liên từ
Tiếng trống Canh một lần hấp thụ
Cảnh khổ thảm từ bốn phía lư.
Tuyết trời ảm đạm mây lam khói
Máy thiện ấn định hồi tỏa lối
Huyền linh thâm sâu rõ việc hay
Đến kỳ THIÊN Ý diệu thâm soi.
Tinh hoa kết tụ giải sắc khai
Mở rộng xét soi cơ thần hay
Chèo chống cửa linh sự khai lý
Mai một một mai rạng đông đầy.
Thiên lập công bằng truy nan cả
Mẹo Đinh tất đàng chốt cột ban
Uy phong tầm thất mời ngon giấc
Làn cơ pháp ấn trải lực ra.
Kỳ Tam hành phận trăng tàn lại
Sanh chúng một nền mầm linh khai
Lưới thế bao quanh gió bay tản
Lầm than lắm kẻ vừa thâu xoay.
Sóng động cơ thể nan truy tưởng
Ngắm nhìn thiện sĩ điển sự tuồng
Luận xem cửa Phật toang mở cánh
Đưa về sanh chúng kiến Phật đường.
Lãm quách tường trụ hiệp khách hầu
Quay gót ra thơ dạy tục câu
Khi không nào có văn thi pháp
Phân chia cho được rõ mất sầu.
Ai chèo chống ngộ về Phật cảnh
Giác lại mê kỳ hội tàn Canh
Đố ai truy hình lộng kim quang
Tam Thanh lập hạn kỳ tân chánh.
Mai chiều ngộ rõ sự đời xong
Cờ tiên xe chống tạng cổ bồng
Rõ hay suy nghiệm nâng công giải
Đông Bắc Tây Nam chầu CỰ [TO] LONG.
Hồng trần biển lớn sâu thăm thẳm
Trời rộng núi cao vẫn đến thầm
Về đâu thân lạc nan cảnh tới
Giục tâm trỗi bước cảnh bon tầm.
TÁI LÂM TRẦN THẾ DIÊU HUYỀN CỔ
Sắp cuộc Đông Tây chiều hướng vô
TỪ BI ĐẠI LỰC XOAY CHIỀU CHẢY
Can qua phận sự khéo chơn dò.
KINH THƯ HUYỀN THẦM HỒI VÔ ẢNH
Khai âm hồ thức mở thông lành
Tâm phúc thản nhiên chờ khai mở
SẮC SÂU SÂU SẮC Ý HUYỀN HÀNH.
HOA LIÊN RỘ NỞ ĐỊNH HUYỀN CƯ
Một hội lập công từ nay khó
Trái đất xoay vòng bao điều ắt
Ba năm lập lại biết mà dò.
Ngọn cờ phơ phất trở lớp màn
Thảm thương nhân thế phải lo toan
Chờ cho hội đủ Long Lầu Các
Năm màu trở lại mình mới an.
Năm châu còn [không] hỡi đắn đo chi
Phật Trời dĩ định đo âu khí
Ham chi nói tiếng nên không tưởng
Ngày mai không biết kịp thoát ly.
Đời mạt hạ phân ly hai nẻo
Ngày lâm nguy bá tánh nạn tai
Sang Thu có đủ Thánh Thần chiếu
Thây phơi kẹt đá cố gắng nêu.
Thây phơi ngọn cỏ thổi SÓNG THẦN
Chuồn bay khói tỏa khắp bớ dân
Ngửa nghiêng nghiêng ngửa hai hàng lụy
Thân phàm phải chịu rẽ tằng lần.
Trời nỡ để một ngày hiu quạnh
Lưới trời bủa khắp tiêu hiu cảnh
Diều rụng muỗi bầy kêu rền gớm
THÂN XÁC TƠI BỜI NƯỚC DẬY THÀNH.
Vần xoay luân chuyển cuộc đời khó
Lụa tím chuộng ưa nay bỏ dở
Già lạc tăm tối mờ hoang đảo
Mây đen phủ áng chịu trăm lo.
HUYỀN sinh hảo đài sen vạn thọ
Cảnh quang đài đến đó bắt cầu
Nguyệt MINH cảnh lạc minh châu
Ngoài ao hồ mấy chậu câu lơn đền.
Có ai thương NGỌC CHƠN MINH ủ [ê]
Tỏ trần duyên ai đủ không duyên
Thấy không không thấy vi HUYỀN
Ráng mà nhìn kỷ hội phiền THIÊN cơ.
Cuộc cờ thay đổi giờ dạ héo
Thoi đưa ngày lụn khéo thẩm suy
Hồng trần thay đổi ly kỳ
TIẾNG XE TIẾNG NGỰA IM RÌ biết bao.
TUYẾT MÙ KHƠI nơi nào đất địa
Đâu chân trời hình khía chân trời
Xét xem cho kẻ hình người
Đọa đày chi bấy lại rồi VÀO HANG.
Soi TRỜI nhìn bước càng lụy ứa
Bước chinh vinh nào dựa cùng ai
BỆNH DỊCH lui tới đông vầy
Rên la thảm thiết đều hay xa gần.
Bịnh tình thế rõ ràng phải bịnh
Trống nhịp thời theo lịnh phúc trình
Rằng NGƯỜI [NGÀI] khép sổ thình lình
Ngùi ngùi khó thở tình hình trọng quan.
Sang ba vọng cửa toang nhìn khá
Trao sổ trình lượng cả Phật Trời
Xót đời còn lắm đua bơi
Luân vơi lịch kiếp đổi dời bao thu.
Soi cho thấy đường tu chơn lý
Nhìn môn đồ thạnh trị phước lành
Cơ huyền diệu lý dĩ thành
Diệu lý khó kiếm dân sanh tỏ lòng.
Gắng ghi trạm dạ Long Đình được
Tu hành nào kẻ trước người sau
Ta đừng phân nhơn vận cầu
HIỆP HÒA CHỜ ĐỢI CHUNG BẦU HUYỀN THÔNG.
LÃO cũng tỏ hương nồng bể khổ
Cái gương nhân thuyền vở mộng vang
Mười ba cửa khó lo toan
Dùng gươm thần trí Lạc Bang vui lòng.
Tiếng Gà giục vì đồng loại cảnh
Chưa nguôi say lợi danh trần phỉ
Buông cương Ngựa chạy hiểm nguy
Năm châu nạn kiếp nan vi tẩu đào.
Lôi âm giục tiếng gào thê thảm
Hè Thu Đông tuôn thảm máu tuôn
Chờ khi có BỊNH DỊCH luồng
Trần Trâu hết rống khai tuồng Ngũ Quan.
Còn ba giấc Ngũ sang xuất thế
Khỉ ngồi cây chễm chệ thở than
Thủy nguyên bạch tượng rõ ràng
Xuân tàn lửa dậy liệu toan bây giờ.
Càn khôn luân chuyển vô kỳ kết
XÁC CÒN HỒN MẤT hết tri âm
TRỤ VÀO TỔ KHIẾU TỈNH TÂM
Thuyền phong nguyệt một mấy năm cái đời.
LÃO nay phân làm tôi với kẻ
Chùa ở đâu bần kẻ với nhau
Đừng tranh lời nói lòng đau
Ráng lo tu niệm hai câu trì mài.
Chờ thời đợi vẫn có đâu xa
Chừng nào trăng tỏ khắp mọi nhà
Lậu cơ TRỜI thuận ban THIÊN Ý
Còn lo một nạn TRỜI xoay thế đà.
TRỜI xoay Âu Á chẳng yên dân
Qua sông bỉ ngạn vẹn chữ bần
Nẻo đàng chân lý tay gìn giữ
Biết chỗ vạy tà mau lánh lần.
Nhựt lặn Tây Đài vì cơ cẩn
Tam niên dị tác nhựt nguyệt dân
Thời tới chọn trạc dư mấy cách
Trông mà độc địa khóc tiếng sân.
Giải thoát lưới trần Thiên Đường sáng
Tan tành bởi đâu đêm sầu quạnh
Nội ngoại xáo xao beo cọp dữ
Ca thinh dạ khắp bổn PHỤ HOÀNG.
Hát tiếng rơi lụy TRỜI RƠI LỤY
Bởi thế nhơn luân nẻo chẳng đi
Có chi mà gọi mong gì gặp
HUYỀN TUẾ hồn thu xoay nguyệt kỳ.
VÔ VI cứu thế MỞ ĐẠO thầm
Dương trần tồi tệ chẳng ghi tâm
Thánh Tiên phiền lụy năm Canh đối
Lửa cháy tưng bừng chịu cảnh kham.
Thở than thảm thiết chồng xa vợ
BIỂN HỒ ĐỔ XUỐNG cuộc thế lo
THÂY TRÔI ÀO ẠT KHÔNG NGỪNG DỨT
Bấy lâu chẳng biết niệm Phật mô.
LỘ BÓNG TỪ BI cảnh vô hình
Xuống pháp tự tin rõ THIÊN MINH
Ngày mai hướng tới nan truy mạch
Khải tấu huyền linh tỏa ánh bình.
Màu trời xoay sắc trải gom thâu
Bụi trần là cảnh thảm với sầu
Thời Tí đến rồi dân say mãi
Sâu rộng phân chia cảnh còn đâu.
Âm thuyết cơn thị xoay quanh xác
Toán trời sửa soạn chiều mơi tắt
Khai sửa mạch quân đạo niên hạn
Sức sống trần gian mòn hao thắc [thỏm].